Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

Bài 34: I Các Vua 1; I Sử ký 1: "Di Sản Sau Cùng"



ĐỜI SỐNG VÀ THỜI THẾ CỦA VUA DAVID
Di Sản Sau Cùng
I Các Vua 1; I Sử ký 28-29

Chúng ta phải tóm tắt một đời sống giống như đời sống của David như thế nào đây? Chúng ta phải kết thiên sử thi nầy như thế nào đây? Sứ đồ Phaolô đã nói tới đời sống của David trong một bài mà ông đã giảng tại nhà hội Bisiđi. Ông nói: "Vả, vua Đa-vít lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời, đoạn qua đời; người đã được trở về cùng các tổ phụ mình, và đã thấy sự hư nát" (Công Vụ các Sứ Đồ 13.36). Quí vị có nắm bắt được phần Phaolô tổng hợp đời sống của David không? Ông "lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời". Có thể nói thêm hay nói hay hơn về bất kỳ tôi tớ nào của Đức Chúa Trời ở bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử chăng?
Tôi thường suy gẫm sống một đời sống trong các thời kỳ Kinh Thánh của ai đó thật là kỳ diệu dường bao. Hãy tưởng tượng đang đứng chung với Môise rồi nhìn thấy Biển Đỏ chia ra làm hai bằng hai con mắt thường của quí vị xem. Hãy tưởng tượng đang đi ra trận đánh với quân Philitin cùng với David là quan tướng của quí vị xem. Hãy tưởng tượng đang làm việc trên các bức tường thành Jerusalem cùng với Nêhêmi xem. Hãy tưởng tượng đang nghe Chúa Jêsus giảng dạy Bài giảng Trên Núi hay nhìn xem Ngài làm cho Laxarơ sống lại từ kẻ chết hay đứng dưới thập tự giá hoặc đang chạy ra ngôi mộ trống kia xem. Hãy tưởng tượng đang quan sát Phierơ khi ông rao giảng vào dịp Lễ Ngũ Tuần xem. Hãy tưởng tượng là một môn đồ của Phaolô hay đang thờ phượng với Hội thánh Êphêsô xem. Kỳ diệu làm sao khi nhìn thấy các bối cảnh đó bằng hai con mắt thường của quí vị và nghe thấy mọi lời nói kia bằng chính hai cái lỗ tai của mình!
Tuy nhiên Đức Chúa Trời trong sự toàn năng của Ngài đã đặt chúng ta vào thời buổi và địa điểm nầy. Giống như Hoàng Hậu Êxơtê xưa kia, chúng ta được sanh ra "cho một thời điểm như thế nầy đây". Quí vị và tôi đã được dựng nên theo cách rất đặc biệt và được ơn nơi Đức Chúa Trời Toàn Năng để trở nên hàng tôi tớ của Ngài ở đây và trong lúc bây giờ. Quí vị và tôi là những giáo sĩ đã được sai phái bởi "ý chỉ của Đức Chúa Trời", ý chỉ của Đức Chúa Trời cho "thế hệ” nầy đây.
Khi tôi đến mức cuối của đời sống trên đất nầy, tôi mong rằng ai nấy đều nói về tôi rằng ông ấy "lúc còn sống, làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời". Tôi mong để lại một di sản sau cùng là đức tin cho con cháu của tôi. Tôi hy vọng rằng chức vụ của tôi là rao giảng Lời của Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục trong đời sống của những người mà tôi đã dạy dỗ. Tôi muốn giữ lòng trung tín. Tôi muốn cùng nói với Phaolô: "Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin" (II Timôthê 4.7).
Trong bài nghiên cứu sau cùng nầy về đời sống và thời thế của Vua David, chúng ta sẽ thấy thể nào ông "đã xong sự chạy" và đã để lại một di sản, cái chạm của di sản ấy chúng ta vẫn còn cảm nhận được hôm nay. David đã có nhiều việc phải làm trước khi ông qua đời. Ông phải đặt Salômôn, con trai ông lên ngôi. Ông phải dạy dỗ cho Salômôn biết phải cai trị như thế nào!?! Ông phải trao toàn bộ kiểu mẫu để xây cất đền thờ và kế hoạch gây nguồn quỹ, vật dụng để xây cất nó. Chúng ta không dám chắc về biên niên sử của các biến cố nầy vì chúng được đề ra trong Kinh Thánh không theo một thứ tự niên đại.
Chúng ta sẽ xét qua ba chương Kinh Thánh, I Các Vua 1 và I Sử ký 28-29. Sau đó chúng ta sẽ tiếp thu một số bài học từ David về sự làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời trong thế hệ của chúng ta và để lại một di sản cho những người đang nối bước theo sau lưng chúng ta.
I. David chọn Salômôn (I Các Vua 1).
A. Sức khoẻ của David suy sụp (các câu 1-4).
Câu 1 chép: "Vua Đa-vít đã già; tuổi cao; và mặc dầu người ta đắp áo cho người, cũng không thể ấm được". Mỗi đời sống đều phải đi tới một mức cuối cùng và đời sống của David không nằm ở ngoại lệ. David đã 70 tuổi khi ông qua đời. Vì vậy ông chưa phải là quá "già" hay "quá cao tuổi" theo các tiêu chuẩn trong thời của ông hay của chúng ta. Cả khi ấy và lúc bây giờ nhiều người sống còn cao hơn 70 tuổi nữa. Tuy nhiên, cơ thể ông đã xuống cấp rồi. Có người đã nói rằng 70 năm sống của ông đáng phải sánh với 100 năm sống thọ. David đã đánh trận với sư tử, gấu cùng những gã giềnh giàng. Ông đã đánh giết nhiều kẻ thù tại chiến trường có tới hàng trăm mạng. Ông có nhiều người vợ và hầu rất xinh đẹp. Ông đã sống như kẻ trốn tránh và như một vì Vua. Ông biết cả nghèo khó lẫn giàu có. Ông được tôn cao hơn cả bao nhiêu người khác. Ông đã dập tắt nhiều cuộc nổi loạn và chinh phục nhiều vùng đất mới. Ông đã giải cứu Hòm Giao Ước và phục hồi lại sự thờ phượng của cả nước trong xứ Israel. Ông đã sáng tác nhiều Thi thiên ca ngợi. David đã gói ghém cuộc sống mình trong 7 thập niên.
Hầu hết các công viên vui chơi đều có đủ thứ trò chơi. Chúng có trò chơi đi mô tô bay, các khinh khí cầu bay chậm hoặc xe lửa chở khách đi vòng quanh công viên. Gia đình tôi rất thích viếng qua các địa điểm vui chơi như thế. Chúng tôi sẽ đứng xếp hàng rất lâu để chơi trò mô tô bay. Có một thứ mà chúng tôi để ý, ấy là cỡi mô tô bay không cỡi được lâu dài. Thường thì người cỡi chỉ đi được có 30 hay 40 giây đồng hồ mà thôi. Quí vị đứng xếp hàng dọc trong cả giờ đồng hồ để đi một chuyến kéo dài chừng nửa phút đồng hồ. Tuy nhiên, quí vị hiếm khi phải đứng xếp hàng để lên chiếc xe lửa kia. Nếu quí vị ngồi trên xe lửa đó đi vòng quanh công viên, thì phải tốn khoảng 10 phút đồng hồ. Tại sao vậy? Thân thể của quí vị chỉ đứng vài giây nơi lực tốc độ cao vận hành trên chiếc mô tô lượn kia, nhưng quí vị có thể ngồi lâu trên xe lửa đang di chuyển với tốc độ thật chậm. Đời sống của David giống như một người cỡi mô tô bay vậy. Đời sống ấy khó nhọc và qua nhanh nhưng qua nhanh một cách tương đối.
Tình trạng cho thấy sức khoẻ ông đang suy sụp, ấy là "ông không thể giữ ấm được" mặc dầu "người ta đắp áo cho người". Máu trong người ông lưu thông rất tồi tệ. Có lẽ tim của ông đã làm cho ông thấm mệt. Thật là đáng buồn khi suy nghĩ tới nhân vật dũng mãnh nầy, người chiến sĩ vô địch đang run bây bẩy dưới hàng đống chăn mền. Tuy vậy, về mặt thể chất cơ thể ông đang ngã chết dần mòn. Một số phận như thế đang chờ đợi hết thảy chúng ta.
Các tôi tớ của ông đã có một ý kiến rất là hay. Họ biết cách làm cho ông được ấm áp. Họ đã "tìm một gái trẻ đồng trinh" để hầu hạ nhà Vua. Tôi nghĩ cô gái nầy là người cuối cùng của một hàng dài các cung phi mỹ nữ. Nàng sẽ "hầu hạ Vua", "săn sóc Vua" và thậm chí họ nói: "Nàng sẽ nằm trong lòng vua, thì vua chúa tôi có thể ấm được". David đã già rồi, nhưng ông chưa chết! David vẫn là David và ý tưởng kia dường như rất tốt cho ông! Họ đã tìm được một "người gái trẻ đẹp" tên là "Abisác" và nàng "săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua không thân cận nàng" theo một ý nghĩa của tình dục.
Bây giờ đối với quí vị cánh đờn ông, những người đang sấp sĩ tuổi 70, cho phép tôi nói rằng điều nầy không phải là cách xưng công bình theo Kinh Thánh để có một nàng hầu 21 tuổi đâu nhé! Quí vị không phải là một vì Vua đâu! Nếu quí vị có bị lạnh, thì hãy mở máy sưỡi điện lên đi!
B. Cách đoạt ngôi sai lầm của Ađônigia (các câu 5-10).
Ađônigia là người con trai lớn nhất của David còn sống. Chắc chắn Ađônigia là người con thứ tư, đứng sau Ápsalôm (đối chiếu II Samuên 3.1-3). Chàng biết cha mình đang lịm dần và tưởng mình sẽ lên ngôi kế vị. Trong phần sửa soạn cho sự cố nầy, chàng đã "tự tôn" mình lên hoặc làm cho ai nấy đều chú ý vào chàng. Chàng "sắm xe và quân kỵ, cùng năm mươi người chạy trước mặt mình" (câu 5). Chàng đã làm theo gương của Ápsalôm khi Ápsalôm tạo quyền lực để chơi trò cướp ngôi (đối chiếu II Samuên 15).
Câu 6 là một câu nằm trong dấu ngoặc đơn nói về đứa con trai “rất đẹp” nầy, "cha người chẳng hề phiền lòng người". Chàng chưa hề biết kỷ luật của cha mẹ. Thật là tình cờ, từ ngữ "phiền lòng" ra từ một chữ Hy bá lai nguyên có nghĩa là "tạo ra, sản xuất hay nắn đúc". David đã thất bại trong vai trò làm cha không nắn đúc được đời sống của con trai mình.
Giống như Ápsalôm đi trước chàng, Ađônigia đã mưu tính một kế sách chính trị. Chàng đã tranh thủ được sự vùa giúp của tổng binh Giôáp và thầy tế lễ Abiatha. Chàng đi xuống "Ên Rôghên" một trong hai dòng suối chính của thành Jerusalem chủ yếu để tự công bố mình là tân vương. Chàng đã mời mọi người, các em mình – "các con trai của Vua", "các tôi tớ Vua""hết thảy những người Giuđa" (câu 9). Tuy nhiên, chàng cố ý loại ra khỏi danh sách khách mời "tiên tri Nathan", "Bênagia, các dõng sĩ""Salômôn em mình" (câu 10). Tại sao vậy? Vì họ hoàn toàn trung thành với David và sẽ không cho phép điều nầy xảy ra nếu không có phép tắc của David.
C. Sự can thiệp khôn ngoan của Nathan (các câu 11-14).
Chúng ta không nghe nói tới tiên tri Nathan trong một thời gian dài. Thế rồi ngay lúc nầy ông đến gặp Bátsêba với tin tức nói rằng "Ađônigia… đã làm Vua, mà David chúa ta, chẳng hay biết sao" (câu 11). Nathan là nhân vật đã được Đức Chúa Trời đại dụng để xét đoán vụ tà dâm của David và Bátsêba. Thế rồi, mỉa mai thay, sau khi tội lỗi họ được tha, nhiều năm về sau, ông đến bên cạnh bà như một người bạn và là mưu sĩ tin kính và thậm chí là một người bảo hộ nữa. Giết chết bất kỳ một nhân vật nào thách thức đối vối ngai vàng là một tập tục cho vị Tân vương và nếu như Ađônigia thành công trong việc nầy, chàng ta sẽ giết chết Bátsêba và Salômôn. Nathan đã thúc giục Bátsêba đến gặp David khi ông  đang còn nằm trên giường và khiến cho ông biết rõ mọi hành động của Ađônigia.
D. Sự nhắc nhớ đúng lúc của Bátsêba (các câu 15-27).
Câu 15 nói rằng Bátsêba đến "tại trong phòng", nơi David ở và tại đó "Abisác… hầu hạ người". Bátsêba vẫn xoay chuyển được cái đầu của David. Khi lần đầu tiên ông nhìn thấy sự lịch sự của bà từ trên mái nhà kia, ông khoảng 50 tuổi. Nếu chúng ta giả định nàng khoảng chừng 20 tuổi lúc bấy giờ và 20 năm đã trôi qua, thì bà chỉ khoảng 40 vào thời điểm nầy. Bà hãy còn trẻ và lịch sự trong con mắt của David. Tôi nghĩ Nathan vốn biết rõ cảnh bà hay làm cho David phải ngẩng đầu lên mà nghe bà nói. Bà đưa ra trường hợp của mình, bà nói:
"Chúa tôi ôi! chúa đã nhơn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúa thề cùng con đòi của chúa rằng: Sa-lô-môn con trai ngươi sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta. Ôi vua chúa tôi! nhưng bây giờ, A-đô-ni-gia làm vua, mà chúa chẳng biết chi đến" (các câu 17-18).
Bà nhẹ nhàng nhắc cho ông nhớ là ông hãy còn nắm quyền làm vua. Bà nói: "Ôi vua chúa tôi! cả Y-sơ-ra-ên đều xây mắt về vua, đợi vua cho họ biết ai là người kế vua phải ngồi trên ngai của vua, là chúa tôi" (câu 20). Theo kế hoạch của họ, Nathan khi ấy mới bước vào, họ khẳng định mọi sự mà Bátsêba đã nói.
E. Lời công bố vương giả của David (các câu 28-46, 49-53).
David cảm thấy áy náy, rồi ông chẳng thấy áy náy chi hết trong một lúc. Xứ sở của ông còn cần đến ông. Ông phải hành động thôi. Ông nhấc thân thể hay cảm lạnh, bị viêm khớp của mình ra khỏi chiếc giường rồi gọi Bátsêba đến bên cạnh mình. Ông nói với bà:
"Nguyện Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã giải cứu mạng sống ta khỏi các hoạn nạn! Ta nhơn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà thề cùng ngươi rằng: Quả hẳn Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ trị vì kế ta, nó sẽ ngồi trên ngai thế cho ta; thì ngày nay ta sẽ làm hoàn thành điều đó" (các câu 28-29).
Khi ấy nhà Vua cho đòi "thầy tế lễ Xađốc, tiên tri Nathan và Bênagia dõng sĩ". Ở đây chúng ta thấy ba chức vụ quan trọng tiên tri, thầy tế lễ, nhà Vua và dõng sĩ. Ông sai ba người nầy đến với Salômôn rồi truyền cho họ phải bắt "con la" của riêng ông cho Salômôn cỡi. Trong Israel nhà Vua hay cỡi một con la để biểu hiện sự vua phục vụ cho dân sự. Con la ấy được trang hoàng và được khoát lấy bộ áo khoác của hoàng gia. Mấy người nầy đã đặt Salômôn lên cỡi con la hoàng gia nầy rồi đưa chàng tới "Ghihôn" dòng suối kia của thành Jerusalem. Ađônigia đang ở tại suối "Ên Rôghên" và Salômôn đang ở tại suối "Ghihôn".
Tại "Ghihôn" họ phải "xức dầu cho người làm Vua Israel rồi thổi kèn lên mà hô rằng ‘Vua Salômôn vạn tuế!'" (câu 34). David cũng nói: "… Các ngươi sẽ theo sau người mà ta đã lập làm vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa" (câu 35).
Các cận thần trung thành của David đã làm theo lịnh của ông từng chữ một. Họ "đỡ Sa-lô-môn lên cỡi con la của vua Đa-vít rồi đưa người đến Ghi-hôn" (câu 38). Họ "lấy cái sừng dầu trong đền tạm, và xức cho Salômôn" (câu 39). Phải chăng đây đúng là cái sừng dầu mà Samuên đã xức cho David nhiều năm trước đó không? Tại sao không chứ? Khi họ công bố Salômôn là Vua, "chúng đều theo người đi lên". Họ "thổi sáo, và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất rúng động bởi tiếng la của họ" (câu 40).
Đúng lúc nầy, lời công bố làm vua của Ađônigia đã qua đi và chàng ta nhận biết rõ điều đó. Chàng ta "nắm các sừng bàn thờ" với tư thế nài xin được thương xót trong hy vọng mình sẽ chẳng bị giết.
F. Lời ngợi khen với lòng biết ơn của David (các câu 47-48).
Trở lại với chiếc giường của nhà vua, David đã nghe thấy các tin tức tốt lành thực sự Salômôn đã lên ngôi. Câu 47 chép: "Và nhà Vua cúi lạy nơi giường mình". Ông không còn đủ sức lực để ra khỏi giường vì vậy ông đã cúi lạy ở đó trong sự thờ phượng. Ông nói: "Đáng khen ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài có ban một người để ngồi trên ngôi của tôi mà mắt tôi xem thấy!" Quí vị có thể hình dung ra David tại đó không? Ông đau bịnh, yếu đuối, thế nhưng ông đã thờ phượng. Có thể ông đã hát lên lời lẽ của Thi thiên 103.1: "Hỡi linh hồn ta, khá ngợi khen Đức Giê-hô-va! Mọi điều gì ở trong ta hãy ca tụng danh thánh của Ngài!!" Khi ông ngợi khen Đức Chúa Trời, ông bắt đầu kiếm lại được sức lực. Còn có nhiều việc mà ông phải lo làm.
II. David chuyển giao ngọn đuốc (I Sử ký 28.1 - 29.25).
Hầu hết các sử gia Kinh Thánh đều nhất trí rằng David đã sống một hay hai năm sau khi Salômôn lên làm Vua. Mặc dù chúng ta không dám chắc về thứ tự niên đại, dường như mọi việc mà chúng ta đọc thấy trong hai chương nầy của sách I Sử ký đã xảy ra sau các sự cố mà chúng ta đã nghiên cứu trong I Các Vua 1.
Một sự thay đổi dường như đã trải qua trên David. Ông nhận biết công việc của mình chưa được trọn vẹn. Ông phải chuyển giao ngọn đuốc lãnh đạo cho Salômôn. Ông phải chuẩn bị cho con trai mình để cai trị và sửa soạn chúng dân để sống dưới sự trị vì của con trai ông. Sau khi tìm được sức lực rồi, David dường như đã chỗi dậy ra khỏi chiếc giường bịnh hoạn kia lâu đủ để triệu tập một hội chúng đông đảo tại thành Jerusalem.
Câu 1 của I Sử ký 28 chép rằng David hội hiệp "hết thảy các quan trưởng của Israel". Ông cho đòi hết thảy "các quan tướng", "các tộc trưởng", "các ban trưởng phục sự Vua", "các quan tướng cai ngàn quân và trăm quân", "các kẻ cai quản sản nghiệp" , các hoạn quan”"những người mạnh dạn" đến gặp ông để nhận một lời dặn dò sau cùng, một hiệu triệu sau cùng đầy sự khích lệ cho các bạn bè đáng tin cậy của ông.
A. Diễn văn cho chúng dân (28.1-8).
Hãy tưởng tượng David giờ đây khi ông "đứng dậy". Trước mặt ông hàng trăm người, có lẽ hàng ngàn bạn bè và những người trung thành ủng hộ đang đứng đó. Một số người trong họ không nghi ngờ chi nữa đã bị sốc khi nhìn thấy nhà vua dường suy yếu là ngần nào. Họ nhận biết không bao lâu nữa ông sẽ không còn ở với họ nữa. Tôi hình dung David đang ném chiếc áo choàng nặng nề ra phía sau, thâu hết mọi sức lực ông đang có rồi đứng dậy nghiêm chỉnh trước mặt thần dân của mình lần cuối cùng. Ông bắt đầu bằng cách nói cho họ biết về sự thất vọng lớn lao trong cuộc đời của mình.
"Hỡi các anh em và dân sự ta, hãy nghe! Ta đã có ý xây-cất một cái đền an nghỉ cho hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, cho cái bệ chân của Đức Chúa Trời chúng ta; ta đã sắm tài liệu cho sẵn đặng cất. Nhưng Đức Chúa Trời phán với ta rằng: Ngươi chớ cất đền cho danh ta, vì người là một tay chiến sĩ, đã đổ huyết ra nhiều" (các câu 2-3).
Giấc mơ trong tấm lòng của David là xây cất một đền thờ để chứa Hòm giao ước của Đức Chúa Trời và làm trung tâm thờ phượng của xứ sở. Đức Chúa Trời đã đáp "Không" đối với giấc mơ nầy. Hai bàn tay của David không thể cất dựng đền thờ vì hai bàn tay ông đã "đổ huyết". Ông là một "tay chiến sĩ" và Đức Chúa Trời sẽ nhờ một con người của sự hoà bình xây cất đền thờ. Ngẫu nhiên thay, tên của Salômôn có quan hệ với tiếng Hy bá lai là shalom, nghĩa là bình an.
Mặc dù Đức Chúa Trời đã phán "không" với giấc mơ của David, nhà Vua vẫn biết ông đã được phước lớn lao là thể nào. Ông nói trong câu 4: "Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có chọn ta từ trong cả nhà cha ta, làm vua Y-sơ-ra-ên đời đời". Nói cách khác: "Mặc dù Đức Chúa Trời đôi lúc phán ‘không', Ngài thường phán ‘được'. Ta không thể than vản. Đức Chúa Trời đã đối xử tốt lành với ta suốt cuộc đời ta!" Thay vì ngã lòng do những việc mà mình không được phép làm, David đang ngợi khen Đức Chúa Trời vì mọi điều mà ông đã bắt tay làm!
Hơn nữa, David đang giải thích thể nào Đức Chúa Trời đã chọn vị Tân vương. Ông nói: "Ngài đã chọn Sa-lô-môn, con trai ta, đặt ngồi trên ngôi nước Đức Giê-hô-va, đặng cai trị Y-sơ-ra-ên" (câu 5). Ông nói thêm:
"Ngài phán với ta rằng: Sa-lô-môn, con trai của ngươi, sẽ cất cái đền và các hành-lang của ta; vì ta đã chọn nó làm con trai ta, và ta sẽ làm cha nó. Nếu người bền lòng làm theo các điều răn và luật lệ ta như ngày nay, thì ta sẽ làm cho nước người được bền vững đời đời" (các câu 6-7).
Đây mới là mục tiêu sau cùng của David. Đây mới là di sản của ông. Ông cần phải lo sửa soạn con trai mình để làm công việc mà ông không thể làm trong sự hầu việc Đức Giêhôva.
B. Lời khuyên dành cho con trai mình (28.9-10).
David xây cả hội chúng các cấp lãnh đạo xứ sở nhìn về Salômôn đang đứng bên cạnh ông trên khán đài. Ông nói: "Còn ngươi, là Salômôn con trai ta…". Trước sự chứng kiến của hết thảy mọi người, David truyền lịnh cho con trai mình. Ở đây giống như một lời thề để nhận lãnh chức vụ vậy. Trong hai chương nầy, câu nầy có lẽ là quan trọng nhất, vì vậy chúng ta hãy tách riêng nó ra. David ban cho Salômôn ba điều phải ưu tiên trong cuộc đời của mình. Ba điều ưu tiên nầy sẽ đóng khuôn đời sống của mọi người xưng danh Chúa.
ƯU TIÊN #1. Nhận biết Chúa Mạng lịnh thứ nhứt là "hãy nhận biết Đức Chúa Trời của cha". Mạng lịnh nầy dường như quá tử tế, có phải không? Tuy vậy, David rất nghiêm chỉnh. Salômôn sẽ trở thành một nhân vật khôn ngoan cả thể. Chàng phải nhận biết Đức Chúa Trời. Tôi cố gắng bắt đầu mỗi buổi sáng trong cuộc đời của mình bằng cách công nhận Đức Chúa Trời đang tể trị trên tôi. Tôi tìm kiếm Ngài nơi Lời của Ngài hầu nhận biết tâm ý của Ngài.
Có thể David đang suy nghĩ tới nỗi yếu đuối, những sự cám dỗ và tội lỗi của mình. Ông đã cầu xin rằng con trai ông sẽ là con người mạnh mẽ hơn ông. Hãy nhận biết Chúa! Không còn có một điều gì khác quan trọng hơn. Giêrêmi 9.24 chép:
"Nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực, và công bình trên đất; vì ta ưa thích những sự ấy, Đức Giê-hô-va phán vậy".
ƯU TIÊN #2. Phục sự Chúa Kế đó David nói: "hết lòng vui ý mà phục-sự Ngài; vì Đức Giê-hô-va dò xét tấm lòng, và phân biệt các ý tưởng". Nếu quí vị thuộc về Chúa quí vị sẽ lo phục sự Ngài. Thắc mắc là, quí vị có bằng lòng phục sự Ngài không? Quí vị có sốt sắng phục vụ trong danh của Ngài không? Hỡi những kẻ làm cha, con cái của quí vị có nhìn thấy quí vị lo sốt sắng chuẩn bị cho buổi thờ phượng sáng Chúa nhựt không? Hỡi các bà mẹ, con cái của quí vị có nhìn thấy quí vị trung tín, bền đỗ đọc Kinh Thánh hàng ngày không? Khi có công việc cần phải lo làm, một vấn đề cần phải giải quyết, có phải con cái của quí vị chúng nhìn thấy quí vị sẵn sàng và bằng lòng phục sự theo cách thức khả thi không? Tôi thích Thi thiên 84.10: "Vì một ngày trong hành lang Chúa đáng hơn một ngàn ngày khác. Thà tôi làm kẻ giữ cửa trong nhà Đức Chúa Trời tôi, hơn là ở trong trại kẻ dữ".
ƯU TIÊN #3. Tìm kiếm Chúa Sau cùng, David nói với Salômôn: "Nếu con tìm kiếm Ngài, Ngài sẽ cho con gặp; nhưng nếu con lìa bỏ Ngài, ắt Ngài sẽ từ bỏ con đời đời. Bây giờ, khá cẩn thận; vì Đức Giê-hô-va đã chọn con đặng xây-cất một cái đền dùng làm nơi thánh của Ngài: khá mạnh dạn mà làm". Lời hứa rất rõ ràng: ai tìm kiếm Chúa sẽ gặp Ngài. Chúa Jêsus đã phán trong Mathiơ 7.7-8: "Hãy xin, sẽ được' hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. Bởi vì, hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở". Hêbơrơ 11.6 chép: "Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài". David đang nói cho Salômôn biết rằng chàng có một phần việc lớn lao đã sẵn dành ở trước mặt chàng. Chàng không thể xây cất đền thờ nếu không tìm kiếm Chúa. Đức Chúa Trời đã chọn chàng cho phần việc và giờ đây Ngài phải thực thi lời hứa đó. Một phần việc như thế cũng có thể được nói cho mỗi một chúng ta, là những kẻ thuộc về Đấng Christ:  "Đức Giêhôva đã chọn các ngươi…khá mạnh dạn mà làm".
C. Kiểu mẫu cho đền thờ (28.11-21).
Có lẽ David khi ấy mới bắt đầu mở bản thảo ra trên bàn đặt trước mặt Salômôn và hội chúng. Nếu ông sống trong thời buổi của chúng ta, đây sẽ là phần trình bày theo máy tính. Câu 11 chép: "Bấy giờ David trao cho Salômôn con trai người các kiểu…", kiểu mẫu chi tiết từng góc cạnh của đền thờ của Đức Chúa Trời. Hãy chú ý trong câu 12 Kinh Thánh cho chúng ta biết David đã vẽ kiểu mẫu nầy "nhờ Thánh Linh cảm động". Chúng được Đức Chúa Trời cảm thúc, Đức Chúa Trời hà hơi. Câu 19 khẳng định điều nầy vì David nói: "Kiểu-mẫu về các công việc nầy[chi tiết], ta nhờ tay của Đức Giê-hô-va chép ra, khiến cho ta hiểu biết vậy". David không thể xây cất đền thờ, nhưng Đức Chúa Trời đã ban cho ông kiểu mẫu chi tiết để xây cất đền thờ.
Có thể David nhận ra Salômôn đã bị xây xẩm vì mọi sự nầy. Hãy chú ý lời nói khích lệ của người cha trong câu 20: "Hãy vững lòng bền chí mà làm; chớ sợ sệt, chớ kinh hãi chi, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của cha, vẫn ở cùng con; Ngài chẳng hề từ bỏ con, cũng chẳng hề lìa khỏi con cho đến chừng các công việc cất đền của Đức Giê-hô-va được xong".
D. Sự ủng hộ dành cho vị tân vương (29.1-15).
Ngay phần mở đầu của chương 29, David xây lại nói với "cả hội chúng", họ đang nhìn thẳng vào ông. Ông nói với họ: "Sa-lô-môn, con trai ta, chỉ một mình con đó mà Đức Chúa Trời đã chọn, hãy còn trẻ tuổi non-nớt, và công việc lại lớn lao; vì cái đền đó chẳng phải cho loài người đâu, bèn là cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời". Ông kêu gọi họ ủng hộ Salômôn và chu cấp các thứ của dâng như vàng, bạc cùng các thứ vật  liệu khác cũng như các thợ khéo cần có cho việc xây cất đền thờ. Họ đã dâng hiến rời rộng ngay tại chỗ đó! Câu 9 tóm tắt như sau: "Dân sự lấy làm vui mừng về đều mình trọn lòng vui ý dâng cho Đức Giê-hô-va; và vua Đa-vít cũng lấy làm vui mừng lắm".
E. Lễ đăng quang của người kế vị (29.16-30).
Thế rồi "trước mặt cả hội chúng" David "chúc tạ Đức Giêhôva". Ông đã dâng lên một lời cầu nguyện rất hay khi ông hướng dẫn cả dân sự bước vào sự thờ phượng chung. Tôi nghĩ rằng thật là thích ứng cho chúng ta phải đọc lời cầu nguyện nầy một cách lớn tiếng ở các câu 10-19.
Khi David cầu nguyện xong, ông nói với dân sự: "Hãy chúc tạ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi" (câu 20). Tôi muốn nhìn thấy sự ấy. Phần còn lại của câu chép như sau: "Cả hội chúng bèn chúc tạ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, cúi đầu xuống mà thờ lạy Đức Giê-hô-va, và lạy vua". Nếu quí vị bước vào trong nhiều nhà thờ rồi nói: "Hãy chúc tạ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi", họ sẽ trừng mắt nhìn quí vị với nỗi ngạc nhiên không hiểu quí vị nói cái gì!
Các thứ của lễ đã được dâng lên. Có chiêu đãi ăn uống, thông công và "rất vui mừng" nơi phần của hội chúng. Câu 22 chép: "chúng lần thứ nhì tôn Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, làm vua, và nhơn Đức Giê-hô-va xức dầu cho người làm vua chúa".
Bối cảnh được tóm tắt lại bằng cách nói cho chúng ta biết rằng "Salômôn ngồi lên trên ngôi""cả Israel đều vâng theo mạng người". "Các quan trưởng và người mạnh dạn" cũng như "các con trai của Vua David" hết thảy đều "phục tùng Vua Salômôn". Câu 25 chép: "Đức Giê-hô-va khiến cho Sa-lô-môn được rất coi trọng tại trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, và ban cho người được oai nghiêm, đến đỗi trong Y-sơ-ra-ên chẳng có một vua nào trước người được như vậy".
III. David để lại một di sản (I Sử ký 29.26-30).
Những câu cuối của I Sử ký 29 cung ứng một sự tổng hợp đời sống của David và "bốn mươi năm" (câu 27) ông làm vua trên Israel. Trong thời gian đó, ông đã thống nhất xứ sở đã bị chia làm hai, thiết lập một thành phố làm thủ đô, kiến tạo một lực lượng quân sự hùng mạnh, bắt phục toàn bộ các kẻ thù, mở rộng các đường biên giới từ 6000 sang 60.000 dặm vuông, và thiết lập một nền kinh tế phồn thịnh với quan hệ buôn bán quốc tế. Hơn cả mọi thành tựu đời nầy, David đã xây lòng dân sự hướng về Giêhôva Đức Chúa Trời. Đúng là một di sản mà ông đã để lại cho Salômôn và cho hết thảy chúng ta! Câu 28 chép: "Người băng hà tuổi cao, thỏa nguyện về đời mình, về sự giàu có, và về vinh hiển; Sa-lô-môn, con trai người, cai trị thế cho người". Có nhớ phần tổng hợp của sứ đồ Phaolô không? Ông "lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời" (Công Vụ các Sứ Đồ 13.36).
Chúng ta kết thúc phần tra xét bốn phương thức chúng ta cũng có thể để lại một di sản sau cùng nữa.
A. Chúng ta không bám mãi vào tội lỗi của chúng ta.
Đức Chúa Trời đã mô tả theo cách riêng David là "người vừa lòng ta, người sẽ tuân theo mọi ý chỉ ta" (Công Vụ các Sứ Đồ 13.22; I Samuên 13.14). Tuy nhiên chúng ta đọc thấy David là một kẻ giết người và phạm tội tà dâm, một con người phạm vào nhiều tội lỗi kinh khủng. Ngay cả tuần lễ nầy, có người đã ngồi suốt phần nghiên cứu nầy đã thắc mắc làm thể nào David phạm vào các việc thể ấy mà vẫn được phước của Đức Chúa Trời mà làm Vua. Câu trả lời có hai phần. Thứ nhứt, David minh hoạ cho ân điển của Đức Chúa Trời. Giống như chúng ta ông không xứng đáng với ơn phước của Đức Chúa Trời, thế mà ông đã nhận lãnh chúng. Thứ hai, David không bám mãi vào tội lỗi của mình. Khi Đức Chúa Trời thuyết phục ông về tội lỗi, David đã mau mắn ăn năn. Hết thảy chúng ta đều sẽ phạm tội vì chúng ta sống trong xác thịt có căn cơ của tội lỗi và một thế giới sa ngã. Chìa khoá không phải là cứ giữ lấy mãi tội lỗi của mình, mà phải mau mắn xây trở lại với Chúa.
B. Chúng ta không trễ nãi trong sự thờ phượng.
David là một ca sĩ tuyệt vời trong Israel. Suốt phần nghiên cứu, chúng ta thấy ông đang thờ phượng trong gần hết mỗi phân đoạn Kinh Thánh. Thậm chí ông còn bảo dân sự ngày nay phải "chúc tạ" Đức Giêhôva. Con cái của chúng ta cần phải nhìn thấy chúng ta không xấu hổ quì gối xuống hạ mình nương cậy vào Giêhôva Đức Chúa Trời vinh hiển.
C. Chúng ta phải tiếp nhận cái “không” của Đức Chúa Trời và vui mừng trước cái “được” của Ngài.
David không được phép xây cất đền thờ. Giấc mơ của ông đã chết cùng với ông. Đức Chúa Trời đã phán "không". Tuy nhiên, David không để cho điều nầy làm lấn cấn ông. Ông vui mừng trong chỗ Đức Chúa Trời đã phán “được” với ông. Chúng ta phải chấp nhận cả hai từ nơi Chúa.
D. Chúng ta phải phấn đấu để hoàn tất mỹ mãn.
Chúng ta cảm nhận như thế nào khi đặt viên đá cuối cùng hay ốp tấm ván cuối cùng vào toà nhà đồ sộ kia? Chúng ta cảm nhận thế nào khi sống ngày, giờ hay phút cuối cùng của cuộc đời? Sẽ ra sao khi trút hơi thở cuối cùng? Tôi không biết. Nhưng trong loạt bài nầy về Vua David giờ đây đi đến chỗ kết thúc, một lẽ thật mà tôi rút ra được, ấy là tôi muốn sống mỗi ngày giống như thể ngày cuối cùng của tôi vậy. Tôi không muốn mình phải lo sửa soạn để chết. Tôi muốn sống sẵn sàng cách liên tục. Tôi không muốn sống lao động đặng để lại một di sản. Tôi muốn sống đời sống tôi theo một di sản đang đặt ở trước mặt mọi người.

***

Bài 33: II Samuên 24: "Cái Giá Của Sự Kiêu Ngạo"




ĐỜI SỐNG VÀ THỜI THẾ CỦA VUA DAVID
Cái giá của sự kiêu ngạo
II Samuên 24

Craig Larson thuật lại câu chuyện nói về Jose Cubero, một trong những tay đấu bò thần kỳ của Tây ban Nha. Anh chỉ mới có 21 tuổi và đã tận hưởng một sự nghiệp mà ai cũng phải nể nang. Tuy nhiên, vào một ngày không được tốt trong năm 1958 anh đã phạm một sai lầm. Anh đâm thanh gươm của mình lần sau cùng vào con bò đang đổ đầy máu, điên tiết, nó té sụp xuống. Cubero xây về phía đám đông đang vỗ tay reo hò, họ đã đứng dậy hết trong sự tán thưởng. Anh ta bị tiếng hoan hô dậy trời che lấp đến nỗi anh ta không hay con bò vừa bật dậy, nó lao tới bất thình lình tấn công tay đấu bò trẻ tuổi nầy và cắm cặp sừng của nó vào lưng anh ta thấu tim luôn. Trong cú sốc mạnh đó, Cubero đã xây mặt về phía người phụ tá của mình rồi kêu lên: "Pali, con bò nầy đã giết tôi rồi". Bài học là: Kiêu ngạo luôn luôn bật dậy đâm sau lưng chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ xem kiêu ngạo đã chết trước khi chúng ta chết.
Trong tuổi già của ông, khi ông đã hiểu biết nhiều hơn, Vua David đã vô ý bị sự kiêu ngạo đánh úp.
Trong phân đoạn Kinh Thánh ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy thể nào kiêu ngạo đã làm cho ông bị tổn thương trước mọi kế sách của ma quỉ. Sự kiêu ngạo khiến cho ông phải chối bỏ phần trình tấu đáng phải nghe theo. Sự kiêu ngạo khiến cho ông phải mở cuộc điều tra dân số dân Israel và làm cho sự phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên xứ sở.
Chúng ta sẽ xét chương nầy trong ba tiểu đoạn. Tội lỗi của David, nỗi đau buồn của David và của lễ của David và kế đó hãy xét qua một vài bài học sau cùng cần phải tiếp thu về sự kiêu ngạo.
I. Tội lỗi của David (các câu 1-9).
A. Đức Chúa Trời nổi giận dân Israel (câu 1a).
Câu 1 bắt đầu bằng cách nói cho chúng ta biết: "Cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva lại nổi phừng cùng dân Israel" Thú vị thay, từ Hy bá lai nói tới "thạnh nộ" có ý nói tới lỗ mũi hay cái mũi. Khi quí vị nổi giận dữ, quí vị thở rất khó nhọc, tim quí vị đập thình lình. Đây là phần nhân loại học (anthropomorphism). Mặc dù Đức Chúa Trời là thần không có lỗ mũi hay cái mũi, ở đây vẽ ra một bức tranh bằng lời cho chúng ta thấy rằng Ngài rất giận dữ. "Nổi phừng" có nghĩa là phực lên giống như một ngọn lửa vậy. Đức Chúa Trời không những bị phiền muộn hay bực tức bởi dân Israel. Mà Ngài còn phừng lên cơn giận đối cùng họ nữa.
Tại sao chớ? Tại sao Đức Chúa Trời lại giận phừng đối cùng dân sự Ngài chớ? Tôi không biết. Kinh Thánh không nói cho chúng ta biết. Có một manh mối ở đây qua một chữ của câu nói. Quí vị có nhìn thấy chữ ấy chưa? Kinh Thánh chép: "Cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva lại nổi phừng cùng dân Israel""Lại" là chìa khoá cho sự hiểu biết của chúng ta.
Trở lại chương 21, chúng ta thấy rằng đã có "một ách cơ cẩn trong ba năm liên tiếp" (câu 1). Khi ách cơ cẩn nầy kéo dài liên tục "hết năm nầy sang năm khác" không ngưng nghỉ, nhà Vua kết luận rằng đây là một sự phán xét của Đức Giêhôva vì một tội lỗi nào đó. Khi ông cầu hỏi Chúa, ông mới hay được rằng sở dĩ có ách cơ cẩn ấy là "vì cớ Sau-lơ và nhà đổ huyết của người, bởi vì người có giết dân Ga-ba-ôn". Israel đã có một giao ước 400 năm với dân Gabaôn. Vài năm trước, Saulơ và "nhà" của ông hay các con trai ông đã tìm cách phạm vào tội diệt chủng chống lại họ. Họ đã tìm cách giết hết thảy dân Gabaôn. Kết quả của cơn sóng bạo lực và giao ước bị phá vỡ như thế nầy đã làm cho Đức Chúa Trời phải nổi giận. Ngài đã cho phép một nạn đói kém khắc nghiệt giáng trên xứ. Đến khi dân sự ăn năn và kết án tử hình các con trai phạm tội của Saulơ thì Đức Chúa Trời mới cất bỏ nạn đói và ban phước lại cho dân sự của Ngài.
Giờ đây chúng ta đọc ở ba chương sau đó: "Cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva lại nổi phừng". Lần nầy chúng ta không được Kinh Thánh cho biết lý do tại sao. Mọi sự chúng ta có thể làm là đoán thôi. Có thể Israel đã nguội lạnh và lỏng lẻo trong sự thờ phượng của họ đối với Đức Chúa Trời. Có thể một số người đã xây sang thờ lạy hình tượng. Có thể họ đã từ chối không ngợi khen Đức Chúa Trời vì các ơn phước dư dật của Ngài dưới sự trị vì của Vua David. Có thể Ngài trừng phạt họ vì sự loạn nghịch của Ápsalôm và Sêba.
Theo ý của tôi thì Israel là một dân đã mập mạnh và kiêu ngạo dưới quyền trị vì của David. Tôi nghĩ họ đã sống giống y như Hội thánh Laođixê. Chúa Jêsus đã phán về dân sự nầy trong Khải huyền 3.15-16.
"Ta biết công việc của ngươi; ngươi không lạnh cũng không nóng. Ước gì ngươi lạnh hoặc nóng thì hay! Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng ta".
Tôi tin tội lỗi của Israel là thiếu nương cậy vào Đức Giêhôva. Dân tộc nầy đã tin vào các tài nguyên, vào sự giàu có và vào sức mạnh quân sự của chính mình. Hết thảy chúng ta đều rơi vào sự kỷ luật của Đức Giêhôva khi chúng ta bắt đầu tin cậy vào các ân tứ thay vì tin cậy vào Đấng Ban Cho.
B. Đức Chúa Trời giục lòng David tu bộ dân sự (câu 1b).
Đức Chúa Trời đã nổi "thạnh nộ" với dân Israel và quyết định trừng phạt họ, vì vậy Ngài đã "giục lòng David nghịch cùng chúng" để tính sổ với họ. Từ chỗ đọc phân đoạn Kinh Thánh, chúng ta hiểu rõ David đang thực hiện sự tu bộ, và điều nầy rất tội lỗi. Ở đây chúng ta đọc thấy rằng Đức Chúa Trời đã "giục lòng" ông thực hiện cuộc tu bộ đó. Điều nầy giới thiệu cho chúng ta thấy một vấn đề rất nghiêm trọng. Tu bộ dân là một việc làm tội lỗi nhưng Đức Chúa Trời dường như lại là tác giả của hay ít nhất là kẻ xúi giục tội lỗi nầy. Ở cái nhìn đầu tiên chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời đã giục David phạm tội và điều nầy hoàn toàn vi phạm vào các bổn tánh của Đức Chúa Trời.
Ở đây là một nguyên tắc giải thích Kinh Thánh. Khi quí vị nghiên cứu Kinh Thánh và thấy điều chi đó dường như là một sự mâu thuẫn, Lời của Đức Chúa Trời không phải là sai, chính sự hiểu biết của quí vị là sai! Khi quí vị nghiên cứu tới chỗ chẳng đặng đừng như thế nầy, quí vị phải đào thêm một chút sâu hơn và nghiên cứu kỷ lưỡng hơn.
Chúng ta biết với sự chắc chắn tuyệt đối rằng Đức Chúa Trời không giục David phải phạm tội. Chúng ta có thể nắm chắc hoàn toàn phần giải thích đó. Giacơ 1.13 rõ ràng nói: "Chớ có ai đương bị cám dỗ mà nói rằng: Ấy là Đức Chúa Trời cám dỗ tôi; vì Đức Chúa Trời chẳng bị sự ác nào cám dỗ được, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai". Đức Chúa Trời là thánh. Đức Chúa Trời là siêu việt. Đức Chúa Trời ghét tội lỗi với một thứ tình cảm giận phừng. Đức Chúa Trời không thể dung chịu tội lỗi được. Cách duy nhứt chúng ta có thể tiếp cận Đức Chúa Trời là bởi sự thực Đấng Christ đã trả giá cho mọi tội của chúng ta và che phủ chúng ta bằng sự công bình của Ngài. Đức Chúa Trời xem khinh tội lỗi, vì vậy Ngài sẽ không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ cám dỗ quí vị phạm tội đâu.
Như vậy, phân đoạn Kinh Thánh nầy dạy dỗ điều gì? Đức Chúa Trời"giục lòng David" làm một việc tội lỗi là có ý nghĩa gì? Để giúp chúng ta hiểu rõ, Kinh Thánh giới thiệu một câu chuyện tương đương trong I Sử ký 21. Ở câu 1 của  chương ấy, chúng ta đọc: "Sa-tan dấy lên muốn làm hại cho Y-sơ-ra-ên, bèn giục Đa-vít lấy số Y-sơ-ra-ên". A, đây là một manh mối. Satan có dính dáng vào.
David đã có lòng muốn tu bộ dân Israel rồi, đặc biệt là quân đội của ông. Ông muốn nhìn thấy xứ sở của ông cả thể là dường nào. Ông muốn đếm hết sự thành công của mình. Trong lòng ông đã muốn phạm tội rồi, ông chỉ cần được “giục” hay cám dỗ nữa là xong.
Hãy hiểu rằng Satan luôn luôn đứng sẵn đó để dẫn chúng ta vào trong tội lỗi. Trong Khải huyền 12.10 hắn được gọi là "kẻ kiện cáo anh em chúng ta". Có nhớ Gióp không? Satan muốn hại ông ấy. Satan dám chắc hắn sẽ khiến cho ông ấy phạm tội. Satan nói với Đức Chúa Trời như sau: "Gióp há kính sợ Đức Chúa Trời luống công sao? Chúa há chẳng dựng hàng rào binh vực ở bốn phía người…?" (Gióp 1.9-10). Có nhớ Chúa Jêsus đã nói gì với Phierơ không? Ngài phán trong  Luca 22.31: "Hỡi Si-môn, Si-môn, nầy quỉ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì". Dường như là Đức Chúa Trời đang có một chiếc hàng rào bảo hộ dựng quanh dân sự Ngài.
Đức Chúa Trời sử dụng mọi hành động gian ác của Satan vì các mục đích cao đẹp của chính Ngài. Thí dụ, trong I Côrinhtô 5.5 Phaolô nói về một tín đồ tà dâm, loạn nghịch: "…rằng, một người như thế phải phó cho quỉ Sa tan, để hủy hoại phần xác thịt, hầu cho linh hồn được cứu trong ngày Đức Chúa Jêsus". Ở ngoài sự bảo bọc, dạy dỗ và tương giao của Hội thánh, người tín đồ không chịu ăn năn kia sẽ bị Satan lợi dụng để rồi người sẽ bằng lòng và ăn năn hối hận mà xây trở về Chúa. Ở một phương thức tương tự, trong I Timôthê 1.20, Phaolô nói về: "…Hy-mê-nê và A-léc-xan-đơ, ta đã phó cho quỉ Sa-tan rồi, hầu cho họ học biết đừng phạm thượng nữa". Thêm nữa, II Côrinhtô 12.7 chép: "Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Sa-tan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo".
Vì vậy đây là những gì câu nầy muốn nói tới. Để đem lại điều ích lớn lao hơn khi sửa phạt Isarel vì cớ tội lỗi của họ, Đức Chúa Trời đã cho phép Satan cám dỗ David tu bộ họ. Trong sự toàn tri của Ngài, Đức Chúa Trời vốn biết rõ mọi điều David sẽ lo làm, nhưng Ngài không khiến David phải làm mọi điều đó. Cũng một thể ấy, Đức Chúa Trời vốn biết rõ Ađam và Êva sẽ phạm tội, nhưng Ngài chắc chắn sẽ không khiến họ phạm tội. Đức Chúa Trời vốn biết rõ Giuđa sẽ phản bội Đấng Christ. Điều nầy đã được nói tiên tri rồi trong Cựu Ước. Tuy nhiên, Ngài không khiến Giuđa phải làm điều nầy. Ngài đã sử dụng tội lỗi của Giuđa nhưng Ngài không giục Giuđa phải phạm tội. Đức Chúa Trời đã sử dụng tội lỗi của David, nhưng không giục David phạm tội. Giống như Giôsép đã nói với các anh mình: "Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi…" (Sáng thế ký 50.20).
C. David truyền cho Giôáp lo tu bộ dân sự (các câu 2-9).
Chúng ta đã mất nhiều thời gian với câu thứ nhứt, nhưng phải có sự cố ý như thế. Tôi muốn quí vị phải hiểu rõ câu ấy. Giờ đây chúng ta sẽ đi nhanh hơn.
Ở câu 2, David triệu Giôáp đến, ông ta là: "quan tổng binh" và nói với ông ta: "Hãy đi khắp các chi phái Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba, tu bộ dân sự, để cho ta biết số dân Y-sơ-ra-ên là bao nhiêu".
Tu bộ dân sự không có gì là mới mẻ hết. Nhà cầm quyền của chúng ta đang lo thực thi cuộc điều tra dân số mỗi 10 năm một lần. Cuộc tu bộ nầy đã diễn ra mấy lần trong quá khứ của dân Israel. Thực ra, có nguyên một quyển sách có tên là  "Dân số ký!" Thí dụ, Môise đã kê sổ toàn bộ dân Israel để xem coi xem có bao nhiêu người "đi ra trận được" (Dân số ký 1.1-4). Hơn nữa, Môise đã thực hiện cuộc kê sổ từ giữa vòng người Kê hát và người Ghẹt sôn để xem coi có bao nhiêu thầy tế lễ ở đó (Dân số ký 4.2, 22). Khi Saulơ tập trung các lực lượng để giải phóng Giabe ở Galaát trong I Samuên 11, ông đã đếm những người có khả năng chiến đấu (I Samuên 11.8). Ngay cả David đã tu bộ rồi các chiến binh trung thành của mình, những ai cùng đứng chống lại sự nổi loạn của Ápsalôm (II Samuên 18.1). Vì vậy tội lỗi không nằm ở chỗ tu bộ, mà nằm ở chỗ động lực. Tội lỗi đã có mặt nơi sự kiêu ngạo, nơi thái độ cậy mình và thái độ tự mãn mà David đã có qua cuộc tu bộ.
Giôáp chắc chắn không phải là một người công bình, thế nhưng ông đã nhìn thấy qua lịnh lạc của David. Ông chống lại: "Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua làm cho dân sự vua ngày nay được còn thêm gấp bằng trăm, và nguyện mắt vua chúa tôi thấy sự gia thêm ấy! Nhưng cớ sao vua chúa tôi vui lòng về một việc như vậy?" Hãy so sánh với phần tường trình trong I Sử ký 21.1: "Nguyện Đức Giê-hô-va gia-thêm dân sự Ngài nhiều gấp trăm lần đã có! Ôi vua chúa tôi! hết-thảy chúng nó há chẳng phải là tôi tớ của chúa tôi sao? Cớ sao chúa tôi dạy bảo làm đều đó? Nhơn sao chúa tôi muốn gây tội lỗi cho Y-sơ-ra-ên?" Ngay cả Giôáp cũng có thể nhìn thấy tội lỗi trong cuộc tu bộ nầy.
Tuy nhiên, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng: "lời của Vua thắng hơn lời của Giôáp". Vì vậy, ông đem "các quan tướng" theo rồi băng qua sông Giôđanh nhắm hướng Bắc, rồi hướng Tây, kế đó là hướng Nam đặng tu bộ dân Isarel. Sau "chín tháng hai mươi ngày" ông trở về báo cáo cho nhà Vua. Tổng cộng "trong Y-sơ-ra-ên có tám trăm ngàn người lính chiến, có tài cầm gươm được, và trong Giu-đa năm trăm ngàn người". Như vậy toàn bộ lực lượng “dõng sĩ” (mạnh sức, đã được huấn luyện, can đảm) là 1 triệu 300 ngàn người.
Quí vị phải để ý rằng I Sử ký 21.5 cung ứng một con số khác. Ở đây nói rằng Israel có "một trăm mười vạn người cầm gươm; trong cả Giu-đa được bốn mươi bảy vạn người cầm gươm". Tại sao lại có tình trạng không nhất quán với nhau như vậy? Có vài cách giải thích khả thi. Cách thứ nhứt theo tôi thì câu chuyện ở II Samuên tính đến các chiến binh đã được huấn luyện, có kinh nghiệm, còn I Sử ký có ý nói tới toàn bộ số chiến sĩ đã tu bộ được.
II. Nổi buồn đau của David (các câu 10-17).
A. Một tấm lòng bị xét đoán (câu 10).
Câu 10 cho chúng ta biết: "Sau khi tu bộ dân sự rồi, David bị lương tâm cắn rứt". Từ ngữ Hy bá lai nói tới chỗ “cắn rứt” có thể dịch như sau "bị thương tổn". Ông đã bị lương tâm mình cắn rứt. Tội lỗi đã quét qua ông. Ông đã nhìn biết mình đã bước ra khỏi sự hiện diện với Đức Chúa Trời. Ông nhận biết mình đã dại dột dường bao khi từ chối không chịu nghe theo Giôáp. Thay vì cảm thấy vui mừng và tự hào với tầm cỡ của quân đội mình, ông đã bị "lương tâm cắn rứt".
Khi một người tin Chúa bất chấp sự dạy của Kinh Thánh, từ chối không giải trình với các cấp lãnh đạo thuộc linh của mình mà cứ buông mình ở trong tội lỗi, đây là kết quả. Như tội lỗi của ông với Bátsêba, Đức Chúa Trời đã vắt kiệt David. Ngài đã đánh vào tận sâu thẳm lương tâm của ông. David biết rõ mình đã sai. Ông biết rõ mình đã phạm tội rất trọng.
Câu 11 dường như chỉ ra rằng các sự cố trong câu 10 đã diễn ra vào ban đêm. Quí vị có thể tưởng tượng David đang nằm trên giường mình trong cung điện. Tài liệu tu bộ đang nằm trước ngọn đèn đặt trên cái bàn kia. David đang cố sức ngủ, song giấc ngủ đã không chịu đến. Ông cứ xây trở luôn luôn. Ông rất tội nghiệp trong tội lỗi của mình. Ông nói:
“Tôi đã làm như vậy, thật là đã phạm tội rất nặng. Vậy, bây giờ Đức Giê-hô-va ôi! xin hãy cất tội lỗi của kẻ tôi tớ Ngài đã phạm; vì tôi có làm cách ngu dại quá”(câu 10).
Khi quí vị phạm tội, khi lương tâm xét đoán quí vị, khi Đức Thánh Linh thuyết phục quí vị thì khi ấy hãy XƯNG TỘI! Hãy ăn năn trước mặt Chúa giống như David đã ăn năn vậy. Hãy sửa lại mọi việc với anh chị em của quí vị đi. Con đường tệ hại nhứt là cứ tiếp tục bước đi trong sự loạn nghịch của mình.
B. Ba lựa chọn (các câu 11-14).
Câu 11 nói rằng "Sáng ngày mai, khi David dậy". Tôi nghĩ ông chỉ có thể ngủ được sau khi đã xưng ra tội lỗi mình và làm cho tấm lòng được hoà lại với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã sẵn đợi David vào buổi sáng đó. Ngài đã phán với "tiên tri Gát, là người tiên kiến của David" và nói với ông như sau: "Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta có ba điều định cho ngươi; trong ba điều đó, hãy chọn một, rồi ta sẽ lấy nó mà phạt ngươi".
Có phải bố mẹ quí vị từng để cho quí vị lựa chọn hình phạt không? Chúng ta đang làm việc ấy hết lúc nầy tới lúc khác cùng con cái của mình. Thí dụ, chúng sẽ chọn chịu quất một vài roi, không được mở TV trong 2 tuần lễ hoặc không được đi chơi với bạn bè trong một tuần lễ. Cũng vậy, Đức Chúa Trời đã để cho David một sự chọn lựa giữa ba hậu quả rất ghê khiếp. Phần lựa chọn thứ nhứt là "bảy năm đói kém [nhiều bản Kinh Thánh cũng như I Sử ký 21.12 chép: ‘ba năm'. Có lẽ chỗ nầy đúng vì chẳn trơn với ba năm, ba tháng và ba ngày]. Thứ hai, ấy là ông  sẽ phải "chạy trốn trong ba tháng" đặng tránh né kẻ thù mình. Phần lựa chọn sau cùng là "dịch hạch trong ba ngày" trên xứ sở.
Quí vị sẽ chọn phần nào đây? Cho phép tôi nói với các em thiếu nhi trong một phút thôi. Các em đã học một bài học từ David ở đây. Nếu quí vị đọc câu 14 quí vị thấy rằng David đã không máy móc chọn lựa một roi vào mông hay một sự sửa phạt dài hạn. Thay vì thế, ông đã ném mình vào ơn thương xót của Đức Giêhôva. Hãy lắng nghe điều ông nói: "Sự khốn khổ tôi lớn thay [tôi không biết phải chọn cái nào]. Nguyện tôi sa vào tay của Đức Giêhôva, vì những sự thương xót của Ngài là lớn lắm, nhưng chớ cho tôi sa vào tay của loài người ta". Mọi sự David đã nhận biết, ấy là ông không muốn chọn số 2 – bị kẻ thù truy đuổi. Ông biết Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời rất thương xót. Ông biết Đức Chúa Trời sẽ xử lý với ông và dân tộc giống như một người cha yêu thương vậy. Ông biết rõ rất đau đớn khi chịu sự sửa phạt của Chúa, nhưng thà là chịu thế còn hơn là phải chịu dưới tay của loài người. Vì vậy, hỡi các em, nếu tôi là các em và bố mẹ tôi cho phép tôi chọn lấy một hình phạt, tôi sẽ nói: "Xin cho con được chịu phạt dưới tay thương xót của bố mẹ! Các em nghĩ xem, ai sửa phạt là tốt nhứt!"
Đức Chúa Trời không những đang xét đoán dân Israel, mà Ngài còn dạy dỗ David nữa. Đức Chúa Trời thành tín kỷ luật con cái Ngài. Đây là một dấu hiệu chỉ ra tình yêu thương của Ngài đang dành cho họ.
“lại đã quên lời khuyên anh em như khuyên con, rằng: Hỡi con, chớ dể ngươi sự sửa phạt của Chúa, và khi Chúa trách, chớ ngã lòng; Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu, hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt" (Hêbơrơ 12.5-6).
“Vì Chúa chẳng hề bỏ cho đến đời đời. Dầu Ngài đã làm cho lo buồn, còn sẽ thương xót theo sự dư dật của lòng nhơn từ Ngài; Vì ấy là chẳng phải bổn tâm Ngài làm cho con cái loài người cực khổ và buồn rầu” (Ca thương 3.31-33).
C. Sự phán xét giáng suống (các câu 15-17).
Đức Chúa Trời đã nghe thấy lời cầu nguyện của David. Từ "buổi sớm mai cho đến thì giờ Ngài đã nhứt định" nạn "dịch hạch" đã xảy đến. Từ ngữ "dịch hạch" có nguyên ngữ "nói tới sự hủy diệt". Dường như chữ nầy có ý nói tới một thứ tật bịnh ngay lập tức giáng thẳng xuống cho dân sự. Trong vụ nầy "chết bảy vạn người".
Hãy nhớ, Đức Chúa Trời không những kỷ luật David, mà trong “cơn thạnh nộ” công bình của Ngài, Ngài còn giáng sự phán xét trên Israel vì một tội khác không được ghi chép lại. Quí vị hãy để ý đến chi tiết trong câu 15, ở đây nói rằng nạn dịch đã quét "từ Đan cho đến Bêe Sêba". Đây đúng là phương thức David đã truyền cho Giôáp phải tu bộ dân sự. Cũng mỉa mai lắm khi David kê sổ dân sự, sau đó có “bảy vạn người” đã ngã chết.
Trên khắp Israel, dân sự đang rơi vào cảnh chết chóc do nạn dịch hoàn hành. Câu 16 mô tả nạn dịch theo hình thức một "thiên sứ". Đây không phải là một em bé mập mạp với đôi cánh kèm theo một cây kèn đâu, mà là một đại biểu đáng sợ của cơn thạnh nộ thánh của Đức Chúa Trời. Ngài đã đánh dân sự từ hết thảy các gia đình, các chi phái và các thành của Israel. Kế đó Ngài đã đến và "giơ tay ra trên Jerusalem đặng hại nó". Tất nhiên Jerusalem là thủ đô, thành phố đông dân nhất. Tiếng chuông sự chết đang rung lên ở một cấp độ cao hơn.
Thế rồi "Đức Giêhôva hối hận về tai họa ấy". Ngài phán với thiên sứ hành hại dân sự như sau: "Thôi, bây giờ hãy rút tay ngươi lại". Có một thuyết thần học phổ thông mà thời buổi ấy gọi là "thuyết hữu thần mở rộng" về cơ bản thuyết nầy dạy rằng Đức Chúa Trời không biết hết mọi sự, đặc biệt là cõi tương lai. Họ chỉ ra một vài phân đoạn khó hiểu trong Cựu Ước như phân đoạn nầy với nổ lực minh chứng cho lý thuyết của họ. Họ nói trong phân đoạn nầy Đức Chúa Trời đã "hối hận" hoặc đã đổi ý mình về sự hành hại.
Họ tìm cách xoá đi bổn tánh thiêng liêng của Đức Chúa Trời và đức tin chính thống Cơ đốc theo lịch sử, những người theo thuyết hữu thần nầy bất chấp ý nghĩa đơn giản của câu nầy. Giống như David đã cầu nguyện xin Đức Chúa Trời ban ra "ơn thương xót lớn lao" của Ngài. Ngài đã không đổi ý của mình. Ngài đã hành động trong sự thương xót. Giống như hình ảnh trong câu 1, câu nầy là câu nói theo nhân loại học (anthropomorphic). Thuyết nầy trình bày một Đức Chúa Trời vô hạn bằng từ ngữ hữu hạn mà chúng ta có thể hiểu được.
Dòng cuối cùng của câu 16 nói rằng: "thiên sứ của Đức Giê-hô-va ở gần sân đạp lúa của A-rau-na” [hay Ọtnan như trong I Sử ký 21.15]. Câu 17 chép rằng David "thấy thiên sứ". Đức Chúa Trời để cho ông thấy cả lãnh vực thuộc linh và một cái nhìn thoáng qua đại biểu siêu nhiên nầy "Đấng đang hành hại dân sự".
David nhìn thấy thiên sứ với hai cánh tay giang rộng ra hướng về thành phố thủ đô và ông đã kêu la với Đức Chúa Trời một lần nữa: "Ấy chính tôi đã phạm tội, tôi là kẻ có tội; còn các con chiên kia có làm chi?.... Nguyện tay Chúa chỉ hành hại tôi và nhà cha tôi". David đã nhìn thấy dân sự giống như "bầy chiên". Ông đã nghĩ họ sống vô tội. Ông không biết Đức Chúa Trời đang xét đoán họ vì một việc khác. Giống như Con của David, là Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài đã cầu thay cho dân sự và đã hiến chính thân mình làm một của lễ trong chỗ của họ.
III. Của lễ của David (các câu 18-25).
A. Huấn thị của Gát (các câu 18-19).
Trong khi David đang nhìn xem thiên sứ và nài xin với Đức Giêhôva, một lần nữa Đức Chúa Trời sai tiên tri Gát đến nói với ông. Lần nầy huấn thị có như sau: "Hãy đi lên, lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va tại nơi sân đạp lúa của A-rau-na, người Giê-bu-sít".
Một cái "sân đạp lúa" là trung tâm hoạt động kinh tế của bất kỳ một làng mạc nào của người Palestine trong suốt mùa gặt. Nông dân đã gặt hái mùa lúa của mình bằng lưỡi liềm rồi đem chúng đến tại sân đạp lúa cho bò đạp để lấy hột ra khỏi gié lúa. Kế đó lúa sẽ dê sạch không còn rơm rạ bằng những cây chĩa hất lúa lên cao. Thường thì có một kho thóc gần đó để cất giữ sản phẩm sau cùng.
Hãy hình dung David khi ông đến gần sân đạp lúa của Arauna" với lòng cung kính trong khi mắt ông cứ nhìn về phía thiên sứ đang đứng ở đó. I Sử ký 21.16 chép:
"Đa-vít ngước mắt lên, thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng giữa lừng trời, tay cầm gươm đưa ra trên Giê-ru-sa-lem. Đa-vít và các trưởng lão đương mặc bao gai, liền sấp mình xuống đất".
B. Sự cung hiến của Arauna (các câu 20-23).
Theo câu chuyện trong I Sử ký, khi David đến gần sân đạp lúa, Arauna (hay Ot nan) ngước mắt nhìn lên và ông nhìn thấy thiên sứ. Bốn người con đang lao động với ông ta đều "ẩn mình đi", còn Arauna cứ đứng đó làm công việc "đạp lúa" của mình.
Khi David cùng đoàn tùy tùng của mình đã tới gần, Arauna "sấp mình xuống đất trước mặt Đa-vít mà lạy". David thông báo cho ông ta biết ông đến đó để "mua sân đạp lúa". Ông nói cho Arauna biết ông tính "xây tại đó một cái bàn thờ cho Đức Giêhôva, để ngừng tai họa hành hại dân sự".
Arauna không có nhiều ý kiến. Ông ta đem Vua David qua một bên nầy và thiên sứ của Đức Giêhôva ở một bên kia. Ông ta là người Giêbusít, một người Ngoại và được phước trú ngụ tại đây gần gũi với thành Jerusalem. Ông ta biết rõ David phải mua cái sân nầy từ nơi ông và ông phải bán nó đi. Ông ta có thể đòi một giá cao rồi nhận lấy nó. Có thể chính sự nhìn thấy thiên sứ khiến cho ông phải lui lại. Thay vì trình cho David một giá bán, ông đã hiến dâng cái sân đạp lúa cho nhà Vua. Sự cung hiến của ông không những cái sân đạp lúa thôi, mà còn luôn cả đôi bò để làm của lễ thiêu cùng cái ách, cộ đạp lúa làm mồi cho lửa nữa. Đây là mọi sự mà David có cần để dâng của lễ cho Đức Chúa Trời đã được hiến cho ông cách miễn phí.
Một lần nữa có lẽ với một con mắt nhìn về phía thiên sứ, Arauna nói thêm: "Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua tiếp nhận vua!" (câu 23).
C. Quyết định của David  (các câu 24-25).
David không chậm trễ. Thậm chí ông không coi việc nhận lãnh tài sản của Arauna là một của dâng nữa. Ông nói: "không không được; ta muốn mua hết của ngươi, cứ theo giá bạc. Ta không muốn dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta những của lễ thiêu không đáng giá chi".
David đã trả một giá đúng đắn cho cái sân và thực thi các của lễ của mình dâng lên Đức Chúa Trời. Câu, chương và sách kết thúc với đáp ứng nầy: "Thế thì, Đức Giê-hô-va động lòng thương Y-sơ-ra-ên, và tai họa trong xứ bèn ngừng lại" (câu 25).
IV. Các bài học cần phải tiếp thu.
A. Kiêu ngạo là hột giống của nhiều tội lỗi.
Như chúng ta đã bàn bạc trước đây, Đức Chúa Trời đang vận hành ở đàng sau bối cảnh xét đoán dân Israel vì mọi tội lỗi của họ. Đức Chúa Trời đã sử dụng điều ác đã có ở trong lòng của David để bày ra cơn phán xét nầy. Đức Chúa Trời nhìn thấy ở trong lòng David và đã nhìn thấy tội kiêu ngạo đó. David, trong lúc tuổi già đã thêm lên sự tự mãn, tự phụ. Ông không có trách nhiệm phải giải trình với bất cứ ai. Ông bất chấp lời bàn của Giôáp.
B. Kiêu ngạo lòn lách với nổi ám ảnh muốn tu bộ dân sự.
Tôi nói điều nầy kèm theo với lời xin lỗi những người làm kế toán trong hội chúng của chúng ta! Hạng người kiêu ngạo có ấn tượng với công việc kê sổ Họ đánh giá bản thân và đánh giá nhau bằng chỉ số lương hàng năm, và bằng mạng lưới giá trị của họ. Họ thường nói với người bán xe hơi bằng câu nói nầy: "Để tôi chỉ cho ông thấy cái điều mà người hàng xóm của ông không thể có được". Họ bị ám ảnh đối với việc kê sổ giống như thể họ có việc gì đó phải làm với mọi ơn phước của họ!
Các Hội thánh cũng có loại kiêu ngạo nầy. Họ lo lắng không biết có bao nhiêu người đến nhóm lại. Họ lo lắng không biết có bao nhiêu tiền đã được dâng cho. Họ lo không biết có bao nhiêu m2 nằm trong điều kiện dễ dàng cho họ. Các vị Mục sư xét đoán nhau bằng tầm cỡ của hội chúng của họ.
Đấy là một trong các lý do mà quí vị không nhìn thấy việc kê sổ sự nhóm lại trên bảng hay trên thông báo. Tôi không chịu thực hiện các cuộc kê sổ đó từ tuần nầy sang tuần khác. Nếu mục tiêu của chúng ta là nhắm vào việc nhìn thấy có bao nhiêu người đến nhóm tại nhà thờ hay có bao nhiêu tiền chúng ta thu vào, làm sao chúng ta có thể nhìn xem Chúa cho được? Tôi tin nếu chúng ta lo về chất lượng chức vụ của chúng ta, Đức Chúa Trời sẽ lo về số lượng của chức vụ chúng ta.
C. Kiêu ngạo bị Đức Chúa Trời quở trách bằng kỷ luật.
Giacơ 4.6 chép: "Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường". Giacơ 4.10 chép: "Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên". 1 Phierơ 5.5-6 chép: "Cũng khuyên bọn trẻ tuổi, hãy phục theo các trưởng lão. Hết thảy đối đãi với nhau phải trang sức bằng khiêm nhường; vì Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy, hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức Chúa Trời, hầu cho đến ký thuận hiệp Ngài nhắc anh em lên".
D. Kiêu ngạo không hợp với sự thờ phượng thật.
David không thể dâng cho Đức Giêhôva của lễ không đáng giá chi. Người biết thờ phượng, dâng hiến cho Đức Chúa Trời phải là một của lễ, một sự hy sinh. Kẻ kiêu ngạo dâng hiến một cách miễn cưỡng từ chỗ có dư dật. Người biết  hạ mình, ngoài của lễ còn dâng lên niềm vui mừng nữa.

***