ĐỜI SỐNG VÀ THỜI THẾ CỦA DAVID
Hình ảnh, Địa điểm và các Thi thiên
I Samuên 21.1 – 22.5
Trong dịp Lễ
Giáng Sinh năm nay, chúng tôi đã mua sắm một máy quay phim. Đây là một trong
những thứ kỳ diệu rất hiện đại giúp cho quí vị thu lấy nhiều hình ảnh, xem
chúng trên màn hình ngay sau khi quí vị vừa thu chúng, tải chúng xuống máy tính
của quí vị, lưu lại rồi in chúng, gửi chúng trên email và còn nhiều việc khác
nữa. Trong mấy tuần lễ, màn hình máy tính của tôi đã ghi lại hình ảnh rất vui
của mấy đứa nhỏ đang mở ra các gói quà, ngôi nhà với nhiều ngọn đèn và tuyết,
mấy đứa cháu, dì, cậu và ông bà. Những bức ảnh thật là đẹp. Các hình ảnh thuật
lại một câu chuyện. Những hình ảnh đưa ký ức trở lại thật là đẹp. Cách đây
nhiều năm, tôi thường nghe Paul Simon khi ông hát trong phần quảng cáo: "Máy
hình kodak, chúng cung ứng những màu sắc tuyệt đẹp, chúng cung ứng màu xanh của
mùa hè và khiến quí vị nghĩ tới cả thế giới trong một ngày nắng đẹp…". Tiếp đến, ông
đã hát. "Mẹ không cất máy hình kodak của tôi đi!"
Hôm nay chúng ta
không nhìn vào các hình ảnh ghi lại bằng máy quay phim, mà nhìn vào các hình
ảnh của Kinh Thánh. Khi chúng ta lật quyển album bằng hình của Kinh Thánh,
chúng ta sẽ thấy bốn hình ảnh nói tới David tại bốn địa điểm. Chàng đang ở
trong tình trạng lấp lửng. Đức Chúa Trời đang bảo hộ chàng khỏi chết, nhưng
chàng chưa thể lên ngôi được. Chàng không thể bị giết, thế nhưng chàng không
thể lên ngôi vua. Trong bốn bức tranh nầy nói tới bốn địa điểm mà chúng ta nhìn
thấy cả mặt sáng láng lẫn mặt mờ tối của David. Chúng ta thấy chàng nói dối và
lừa lọc, nhưng chúng ta sẽ thấy chàng tiếp trợ và bảo hộ. Ở phần cuối, chúng ta
sẽ nhìn vào đàng sau các bối cảnh rồi thấy, mặc dù là con người, người vừa lòng
Đức Chúa Trời luôn luôn quay trở lại một địa điểm, một nơi quan trọng nhất
trong đời sống của chàng ... ấy là nơi chốn của sự thờ phượng.
I. Tại
xứ Nốp. Ăn bánh mượn (21.1-9).
A. Sự
tiếp đón của Ahimêléc (các câu 1-2).
Sau lần chia tay
rất đau đớn của chàng với Giônathan ở chương 20: "David
đến Nốp". "Nốp" nằm cách phía
đông bắc thành Jerusalem
chừng vài dặm. Ai cũng biết đây là "thành của
các thầy tế lễ". Ở đó thầy tế lễ thượng phẩm của Israel ,
Ahimêléc sống với ít nhất 85 thầy tế lễ khác. Có lẽ đây là nơi Hòm Giao Ước
được lưu giữ trước khi Hòm ấy được dời vào thành Jerusalem trong đời trị vì của David.
Hãy chú ý trong
câu 1, David không những "đã đến Nốp" mà đặc biệt
chàng còn "gặp thầy tế lễ Ahimêléc" nữa. Không những
chàng đã đến với một địa điểm, mà còn đến với một nhân vật nữa. Chàng không thể
trở lại với Giônathan, bạn của chàng. Chàng không thể trở lại với Micanh, vợ
của chàng. Chàng không thể trở lại với Samuên, nhà tư vấn của chàng. Chàng
không thể trở lại với đồn luỹ có cả ngàn người đương ở dưới quyền chỉ huy của
chàng. Vì lẽ đó chàng đi thẳng tới thầy tế lễ thượng phẩm của Israel , với hy
vọng Ahimêléc sẽ giúp đỡ chàng.
Ahimêléc đã "run
sợ" khi David đến với ông. Chắc chắn báo chí đã cho loan tin ấy ra. Mọi
người đều nghe nói thể nào Saulơ đã tìm cách bắt sống David nhưng Micanh đã
giúp cho chàng trốn thoát. Cả nước đang nói về Đức Thánh Linh thể nào đã giáng
xuống các binh lính của Saulơ tại Nagiốt rồi khiến cho họ phải nói tiên tri
thay vì tìm bắt chàng. Còn nữa, họ đã nghe nói thể nào chính mình Saulơ đã đi
tới Nagiốt và ông ta đã ngã xuống đất cởi trần mà nói tiên tri. Mọi người đều
thắc mắc: "Saulơ há cũng vào hàng các tiên tri sao?" (19.24).
Ahimêléc không phải run sợ khi gặp Saulơ tại Nốp và vì vậy ông đã "run
sợ" khi David đến đó.
Ông hỏi: "Nhân
sao ông có một mình, chẳng ai theo hết vậy?" Ai nấy đều biết David
là trưởng một ngàn người (18.13). David đã xuất hiện có một mình, không
có vũ khí và đang thở hắt, không làm dịu nỗi lo sợ của Ahimêléc về sự hiện diện
của chàng. Đã có chuyện gì đây rồi, và thầy tế lễ già nua kia vốn biết rõ
chuyện ấy.
Tuần rồi, chúng
ta đã thấy thể nào David đã bịa ra một lời nói dối cho Giônathan đến nói với
Saulơ. Giờ đây chúng ta thấy chàng đã có sẵn một lời nói dối với Ahimêléc.
"Vua có sai tôi một việc, và dặn rằng: Chớ cho ai biết gì hết
về việc ta sai ngươi làm, cũng đừng cho ai biết lịnh ta truyền cho ngươi". Chúng ta hãy
đưa câu nói nầy ra theo thuật ngữ hiện đại: "Hỡi
Ahimêléc, ngươi thấy đấy, Vua Saulơ đã phái ta tới đây trong một sứ mệnh bí
mật. Vì sứ mệnh ấy là bí mật, ta không thể nói cho ngươi biết một điều gì về sứ
mệnh đó hay thậm chí nói cho ngươi biết một lời gợi ý nữa. Vì vậy đừng hỏi ta
thêm một câu nào nữa".
Thay vì tin cậy
Đức Chúa Trời làm thoả mãn mọi nhu cần của chàng, một lần nữa chàng lại thực
thi tiểu xảo lừa gạt. Tôi không dám chắc lý do tại sao David lại thốt ra lời
nói dối nầy. Thực sự chàng đang cần thức ăn, nơi ẩn náu và các thứ vũ khí. Có
thể David đã nghĩ nếu chàng nói ra sự thực Ahimêléc sẽ không giúp đỡ chàng. Có
thể chàng đã nghĩ Ahimêléc sẽ tâu báo với Vua Saulơ rồi phản bội chàng. Có thể
chàng đã nghĩ rằng nếu Ahimêléc không biết sự thực là Saulơ đã tha cho chàng
khi chàng đã đến đây. Có thể David muốn nói ra sự thực, nhưng một lời nói dối
lại thốt ra khỏi môi miệng của chàng, vì nói ra lời dối trá thì dễ hơn là nói
ra sự thực ... Tại sao chàng nói dối là không quan trọng. Cái điều quan trọng,
ấy là Đức Chúa Trời không hề chúc phước cho những lời dối trá … vì bất cứ lý do
nào!
Để trả lời cho
thắc mắc của các thầy tế lễ tại sao chàng đến đó có một mình, David đáp: "Ta đã
chỉ định cho các tôi tớ ta một nơi hò hẹn". Bộ quí vị chẳng
nghe chàng nói: "Người của ta ư? Ờ … ta đã sai
họ đến … ờ … có lẽ các ngươi chưa hề nghe nói tới chỗ … ờ … nói ta cần một ít
bánh ăn".
B. Sự
tiếp trợ bằng bánh thánh (các câu 3-6).
David đang đói
khát. Chàng đang ẩn náu trong đồng vắng ít nhất là ba ngày trước khi chàng thực
hiện chuyến hành trình đến Nốp sau khi chia tay với Giônathan. Chàng không cầu
kỳ kiểu cách. Chàng chỉ cần một số bánh, một số thức ăn bồi dưỡng. Chàng nói:
"Bây giờ, thầy có chi trong tay? Hãy trao cho ta năm ổ bánh
hay là vật gì thầy có thế tìm được".
Thầy tế lễ già
nua kia mau chóng chỉ ra: "Trong tay ta không có bánh thường,
chỉ có bánh thánh mà thôi". Họ không có lò bánh mì ở Nốp để hấp bánh mì,
bánh ngọt, bánh rán, bột mì v.v… Họ không có sẵn bánh “thường”. Bánh duy nhất mà
họ có là “bánh thánh”.
"Bánh
thánh" là bánh trần thiết, là loại bánh được đem đặt ở trước mặt Đức Giêhôva
như một của dâng. Mỗi tuần vào ngày Sabát, các thầy tế lễ sẽ mang vào trong đền
tạm, vào trong Nơi Thánh 12 ổ bánh tiêu biểu cho 12 chi phái Israel. Các ổ bánh
nầy đã được dâng cho Đức Chúa Trời và tiêu biểu thể nào Đức Chúa Trời là Đấng
Tiếp Trợ vĩ đại cho từng chi phái. Tuần tới, 12 ổ bánh mới được đem đến và 12 ổ
bánh trước đó được đem cất đi. Các thầy tế lễ khi ấy mới có thể ăn mấy ổ bánh
đó. Bánh duy nhất mà Ahimêléc có nơi tay là "bánh
thánh" có từ tuần lễ trước.
Thầy tế lễ
Ahimêléc đặt sự sống trước luật pháp. Ông khôn khéo phân biệt nhu cần tức thời
của David về thức ăn có sự ưu tiên hơn luật lệ nghi thức, luật nầy cho rằng chỉ
có các thầy tế lễ mới được phép ăn bánh ấy. 22.10 chép rằng ông đã cầu nguyện
về quyết định nầy và "cầu vấn Đức Giêhôva".
Trong Mác
2.23-28, các môn đồ của Chúa Giêxu đã bứt một ít bông lúa mì vì họ bị đói dù
hôm ấy là ngày Sabát. Người Pharisi nổi giận về việc luật nghi thức bị vi phạm.
Khi ấy Chúa Giêxu mới đưa họ trở lại với sự cố nầy trong đời sống của David.
Ngài phán: "Vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ
chẳng phải vì ngày Sa-bát mà dựng nên loài người" (câu
27). Chúa Giêxu không bỏ qua sự dối gạt của David, mà Ngài dạy rằng tính
cần kíp của sự sống thế chỗ cho luật nghi thức.
Điều kiện duy
nhất Ahimêléc đề ra cho việc David ăn bánh của thầy tế lễ, ấy là chàng và người
của mình "miễn là các tôi tớ ông không có đến gần
đàn bà" (câu 4). Theo Lêvi ký 15.16, giao tiếp về tình dục chỉ ra
một sự bất khiết theo nghi thức. Vì vậy thầy tế lễ muốn có sự bảo đảm là dù họ
không phải là thầy tế lễ, ít nhất là họ phải thanh sạch về mặt nghi thức.
Vì vậy Ahimêléc
đã trao cho David: "bánh thánh…mà
người ta đã cất khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va, đặng thế bánh mới cùng trong một
lúc ấy" (câu 6).
C. Sự
theo dõi của Đôe (câu 7).
Câu 7 cho chúng
ta biết tại thành của các thầy tế lễ, "Đôe, dân
Êđôm" cũng có mặt ở tại Nốp. Đôe là
một tôi tớ của Vua Saulơ. Thực ra, hắn ta là "đầu các kẻ
chăn chiên". Hắn là người chăn số 1 của Saulơ. Hắn không phải
là dòng dõi Do thái mà là một người đã nhập tịch Do thái, một người mới cải
đạo, một người mới chuyển sang tôn giáo khác. Hắn đã trở lại đạo sau khi quân
đội của Saulơ thôn tính xứ sở của hắn. Triết lý của hắn là "nếu
anh không thể đánh họ, hãy hiệp tác với họ". Chúng ta sẽ
thấy hắn là một con người bạo lực, đáng kinh tởm, chẳng trung thành với ai hết
trừ ra với chính mình hắn. Hắn không có mặt tại Nốp để thờ phượng, mà vì hắn bị
"cầm lại tại trước mặt Đức Giêhôva" và không thể đi
đâu được trong ngày Sabát. Chương 22 tỏ ra hắn rất sốt sắng báo cáo mọi việc
lại cho Saulơ rồi đem đến cái chết cho Ahimêléc cùng tất cả các thầy tế lễ.
Tuần tới chúng ta
sẽ học biết Saulơ đã giết hết thảy các thầy tế lễ và thành Nốp bị đặt dưới lưỡi
gươm. Khi David hay được các tin tức, chàng nói trong 22.22 với con trai của
Ahimêléc: "Trong ngày ấy, ta hiểu rõ Đô-e, người
Ê-đôm, có mặt tại đó, chắc sẽ học lại cho Sau-lơ. Ấy tại cớ ta mà cả nhà của
cha ngươi bị chết".
David không hề
nghĩ tới sự an ninh của Ahimêléc hay sự an ninh của các thầy tế lễ. Chàng đã
không nghĩ tới ai khác. Khi quí vị chỉ biết nhắm vào bản thân mình, quí vị
không nghĩ tới thể nào mọi hành động của quí vị sẽ ảnh hưởng tới nhiều người
khác. Mọi nhu cần của quí vị đến trước tiên. Mọi nan đề của quí vị là hết thảy
những gì đang có cần.
D. Tình
cần thiết của một thứ vũ khí (các câu 8-9).
Giờ đây David đã
có đồ ăn, nhưng chàng cũng cần một thứ vũ khí. Chàng hỏi thầy tế lễ: "Dưới
tay thầy đây, há chẳng có một cây giáo hay là một cây gươm sao?" Một lần
nữa, chàng đã nói dối: "Ta không có đem theo gươm hay là
binh khí gì, vì lịnh vua lấy làm gấp rút".
Ahimêléc vuốt hàm
râu của mình rồi đáp: "Đây có cây gươm của Gô-li-át,
người Phi-li-tin mà ông đã giết trong trũng Ê-la; nó bọc trong một miếng nỉ, để
sau Ê-phót; nếu ông muốn lấy, thì hãy lấy đi". Thanh gươm được coi
là một chiến lợi phẩm và rõ ràng đã được dâng cho Đức Chúa Trời và đặt trong
Nơi Thánh ở đàng sau cái êphót của Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm. David đã giữ vũ khí
của Gôliát, song dường như đã dâng cho Đức Giêhôva rồi. Bây giờ chàng muốn lấy
lại thanh gươm đó. Chàng đã nhận lấy bánh đã được dâng cho Đức Chúa Trời và
cũng lấy lại thanh gươm đã được dâng cho Đức Chúa Trời.
David đáp cùng
thầy tế lễ: "Chẳng có gươm nào bằng, hãy trao cho ta". Tất nhiên
là chẳng có gươm nào bằng rồi. Sau khi David ném một hòn đá trúng nơi đâu giáp
của Gôliát, chàng đã dùng thanh gươm đó chặt lấy đầu của gã giềnh giàng ấy.
Thanh gươm ấy đã được chế tạo cho một gã cao 9 feet! Hắn phải cầm thanh gươm ấy
bằng cả hai tay. Hãy tưởng tượng sự huỷ diệt mà hắn có thể gây ra với thanh
gươm ấy ở giữa chiến trường xem. Còn nữa, thanh gươm ấy là thanh gươm rất nổi
tiếng. Khi mang thanh gươm đó, David đã buộc một tấm vải thêu ghi rằng: "Ta
đã giết Gôliát". Như chúng ta sẽ nhìn thấy trong một phút, điều nầy
sẽ dẫn chàng vào chỗ rối rắm.
II. Ở
xứ Gát. Giả đò điên cuồng và dại khờ (21.10-15).
A. Cuộc
tháo chạy của David (câu 10).
Ngay sau khi ngày
Sabát qua rồi, giờ đây mạnh khoẻ lại bằng bánh của thầy tế lễ rồi được vũ trang
bằng thanh gươm của Gôliát, David ra khỏi xứ băng ngang qua biên giới vào trong
đất của dân Philitin, đến thành đầu tiên trong khu vực đó, là thành Gát. David
đã đến ở tại Gát trước đây, chàng biết rõ gần hết xứ Gát. Gát là thành phố quê
hương của gã giềnh giàng Gôliát. Khi David giết hắn trong trũng Êla, Kinh Thánh
chép: "Bấy giờ, người
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa dấy lên, hò hét, đuổi theo dân Phi-li-tin cho đến cửa
thành Gát và Éc-rôn; người Phi-li-tin bị thương ngã chết đầy đường Sa-ra-gim
cho đến Gát và Éc-rôn" (17.52).
David sẽ nghĩ sao
đây? Tại sao có cả thế giới cho chàng đi, chàng lại đi vào xứ của kẻ thù rồi
tiến thẳng vào thành phố quê hương của Gôliát, lại còn mang theo thanh gươm của
gã giềnh giàng ấy nữa? Trong thời buổi xa xưa, những kẻ đánh thuê được đánh giá
rất cao. Có một vinh dự cho chiến binh quay sang hai phía trong chiến trận. Có
lẽ David nghĩ rằng "Akích, vua xứ Gát" sẽ vui lòng tiếp
đón chàng.
B. Nỗi
sợ hãi của David (các câu 11-12).
David đến tại Gát
chẳng gây ra một xáo trộn nhỏ nào. Ngay lập tức người ta nhận ra chàng. Hãy nhớ
rằng dáng vẽ bề ngoài của David là "hồng
hồng" (16.12) có lẽ điều nầy muốn nói tới màu hung đỏ bất thường trên
mái tóc của chàng. Quan trọng hơn nữa, chàng đang đeo thanh gươm của Gôliát.
Chỉ có một mái đầu màu hung hung đỏ đang đeo thanh gươm khỗng lồ trong phần đất
đó của thế giới. Mọi người đều nhận ra chàng.
Các tôi tớ của
nhà vua đã báo cáo về sự hiện diện của David rồi hỏi: "Có
phải đó là David vua của xứ ấy chăng?" Hãy chờ một phút xem! David
chưa phải là vua mà. Đối với tôi dường như có một sự tranh cạnh đang diễn ra
trong xứ Israel và có nhiều bài hát đã được người ta hát lên, và nhiều lời tiên
tri đã được đưa ra cho rằng chẳng bao lâu nữa David sẽ đoạt lấy ngai vàng của
Saulơ khỏi ông ta. Các tôi tớ cũng nhắc cho Akích nhớ tới các bài hát nổi tiếng
về David còn vẳng xa đến tận xứ Philitin: "Saulơ
giết hàng ngàn, còn David giết hàng vạn".
Sau khi để ra
chút ít thì giờ tại cổng thành và nghe được những tiếng đồn xây quanh chàng, "David
để các lời nầy vào trong lòng mình". Chàng nhận biết rằng có
nhiều người trong số "hàng ngàn" chàng đã giết
đều xuất thân từ xứ Gát. Huyết của các gia đình người Philitin nầy đều ở trên
hai bàn tay của chàng. Có nhiều người trở thành mẹ không con, và có nhiều người
con mất cha trong xứ Gát đang cảm ơn David. Vì vậy, chàng “rất
sợ Akích, vua xứ Gát". Chàng sợ rằng thay vì tiếp đón chàng như
một chiến binh đánh thuê, thực ra nhà vua sẽ giết chàng như một hành động mang
tính cách thủ đoạn chính trị.
C. Bề
ngoài của David (các câu 12-13).
David rất lanh
trí và tiểu xảo. Chàng sử dụng một chiến thuật làm cho mình ra hèn hạ nhưng lại
rất thành công. Chàng "giả đò điên cuồng" và "làm
bộ khờ dại" trước mặt họ. Tôi cho rằng chàng đã "ở
trong tay họ" nghĩa là chàng đã bị bắt. Là một tù nhân, chàng đã "vẽ
vạch dấu trên cửa". Chữ Hy bá lai ở đàng sau "vẽ
vạch" nói tới nhiều việc lắm. Chữ nầy có thể được dịch là "viết
nghệch ngoạc", "cào xước" hay ngay cả "nện
đập". Tôi nghĩ David sống giống như tù phạm trong một cuốn phim xưa gõ ca
uống nước của mình trên các chấn song để làm cho mấy tên cai ngục khó chịu.
Thêm nữa, chàng "để nước miếng chảy trên râu
mình". Chàng đã để cho nước dãi nước mũi chảy lòng thòng xuống cằm của mình.
Quả thực chàng đã tỏ ra điên dại lắm.
Tính tiểu xảo của
David được thấy rõ trong sự chàng hiểu biết tâm lý của người Philitin. Giống
như nhiều nền văn minh xưa kia, họ đã xem hạng người điên dại đã bị các thần “đụng
đến”. Họ e sợ và không bao giờ làm hại loại người ấy. Một trường hợp rõ
ràng là Nê-bu-cát-nết-sa, vua của Babylôn, ông ta đang ở trong tình trạng điên
dại gầm rống giống như thú vật trong một thời gian. Dân sự của ông ta e sợ và
không hề giết hay bỏ tù ông ta. Họ chờ đợi sự tỉnh táo của ông ta trở lại.
Rõ ràng, họ đã
đưa David đến gặp nhà vua. Ở đó, người vừa lòng Đức Chúa Trời đã đứng giả đò
điên cuồng và dại dột. Akích nói: "Kìa, các ngươi
thấy người đó điên cuồng! Cớ sao các ngươi dẫn nó đến ta? Nơi ta há thiếu kẻ
điên sao, nên các ngươi phải dẫn kẻ nầy đến ta đặng nó bày sự kỳ cục trước mặt
ta? Một người như vậy chẳng nên vào nhà ta". Cho phép tôi đóng
ngoặc đơn: "Ta đã có cả khối người điên trong xứ Gát rồi!
Chẳng lẽ chúng ta lại cần thêm một người nữa sao? Đuổi nó ra đi".
III.
Tại Ađulam. Thiết lập quân đội (22.1-2).
Khi David rời xứ
Gát, chàng quay trở lại vào trong xứ Giuđa rồi đến "trốn
trong hang đá Ađulam". Hãy nhớ David đã tốn nhiều năm trời chăn
chiên tại khu vực nầy. Có lẽ khi còn là một thiếu niên, chàng đã rành rọt hết
hang động to lớn nầy gần thành Ađulam của xứ Canaan xưa kia.
F.B. Meyer chỉ ra
rằng có bốn điểm tương tự giữa David và Chúa Giêxu ở đây. 1) một
nhà vua bị chối bỏ sắp lên ngôi; 2) Nước của David chưa tỏ tường; 3)
David cùng những kẻ theo mình bị cách ly; 4) David phải chờ đợi thì
thuận tiện của Đức Chúa Trời.
David đã đụng tới
tận đáy khó khăn của chàng. Đức Chúa Trời đã nâng chàng lên cao từ chuồng chiên
lên tới một địa vị quyền lực cao cả, nổi bật và đầy khí thế. Giờ đây chàng
giống như một thú rừng bị săn đuổi, trốn chui trong một hang động chẳng có đồ
ăn, chẳng có bè bạn. Tuy nhiên, khi gia đình chàng hay được hoàn cảnh nầy "cả
nhà cha người" đã khăn gói đến và "đi xuống
cùng người". Toàn bộ thân tộc đã đoàn tụ lại với nhau. Có lẽ họ
chỉ muốn được sống với David mà thôi. Có lẽ họ e sợ mọi điều mà Saulơ sẽ làm
đối với họ. Thật chẳng nhằm nhò gì nữa hết. Giờ đây David không còn sống một
mình nữa.
Tiếng đồn lan
rộng và khi ấy có nhiều người bắt đầu đến với David. Câu 2 nhắc tới ba loại
người tụ tập lại với David trong đội quân ngày càng tăng ở trong hang động.
Trước tiên có những kẻ "bị CÙNG KHỐN". Từ ngữ Hy bá
lai có nghĩa là "bị đè nén". Chúng ta phải
nói là số người ấy là hạng người "đã ở trong
chỗ căng thẳng". Thứ hai là những kẻ "mắc NỢ". Tôi thấy chữ
nầy có ý nói họ đã mắc một số tiền thuế chưa nộp cho Saulơ và có lòng muốn ở
theo phe nghịch của Saulơ. Thứ ba là những kẻ có lòng bị "SẦU
KHỔ". Theo nghĩa đen, chữ nầy có nghĩa là: "linh hồn
cay đắng". Đây là những người làm cách mạng, những người đau
khổ vì chứng mất trí của Saulơ và ao ước trông mong chính nhà vua của Đức Chúa
Trời mau ngồi lên ngôi.
Khi số người nầy
đã đến, David đã "làm đầu họ". Tất cả "có
chừng bốn trăm người" cộng thêm phụ nữ và trẻ con. Một lần nữa,
hãy chú ý hình ảnh giữa David và Chúa Giêxu "Con Vua
David" xem. Dù chưa ngồi lên ngôi, Chúa Giêxu vẫn đang kêu gọi những ai cùng
khốn bởi người thế gian, mắc nợ tội lỗi và sầu khổ với cuộc sống trong xác
thịt. Ngài đang thiết lập một đội quân riêng của Ngài, đội quân đó sẽ đồng trị
với Ngài khi Ngài ngự trên ngôi của David tổ phụ Ngài.
IV. Ở xứ
Môáp. Lo bảo hộ cha mẹ (22.3-5).
Một thời gian
sau, cùng với mấy trăm người nầy, David rời khỏi "hang đá
Ađulam". Tôi nghĩ là đội quân của chàng đã lớn lên đủ để không còn ở nơi đó
được nữa. Chàng đã đến tại "Mítbê xứ Môáp". David vốn lo
lắng về cha mẹ mình trong lúc tuổi già. Họ không còn được an ninh ở tại thành
Bếtlêhem bao lâu Saulơ còn nắm quyền lực. Sức lực ngày càng suy giảm của họ
khiến cho họ khó mà sinh hoạt với một đội quân cứ di động rày đây mai đó qua
địa hình của vùng núi non hiểm trở. Vì vậy David nói với vua xứ Môáp: "Xin
cho phép cha mẹ tôi đến ở với vua cho đến chừng tôi biết điều Đức Chúa Trời sẽ
làm cho tôi".
Một số người
trong quí vị lập tức nhớ ra Rutơ, tổ mẫu của David là một người đờn bà Môáp (Rutơ
1.4). Bà đã lấy Bôô và trở thành mẹ của Ôbết, ông nầy là cha của Giesê,
Giesê là cha của David (Rutơ 4.13-17). Có thể đây là một phần trong lý
do Giesê và vợ ông được phép ở lại với vua xứ Môáp trong "đồn" (từ chữ mesudah, có ý nói tới
đồn luỹ trên núi Masada trên Biển Chết).
Trong khi ở lại
xứ Môáp, "đấng tiên tri Gát" đã tìm gặp chàng
rồi thốt một lời ra từ Đức Giêhôva. Đây là lần đầu tiên chúng ta gặp tiên tri
Gát. Tôi hình dung ông ta đã xuất thân từ trường đào tạo tiên tri của Samuên.
Ông ta đã đến với David thêm vài lần nữa trong tương lai. Tuy nhiên, sứ điệp
của ông ta là: "Chớ ở trong đồn nầy; hãy đi đến xứ
Giuđa".
David đã làm theo
lời tiên tri nầy và trở về lại xứ Giuđa. Chàng dẫn người của mình và các gia
đình vào trong "rừng Hêrết", một khu vực cây
cối rậm rạp thuộc vùng núi ở miền Nam xứ Giuđê. Chúng ta phải hình dung David
giống như một Robin Hood trong Kinh Thánh, đang làm lành song lại ẩn náu trốn
tránh nhà vua gian ác.
V.
Trong sự thờ phượng. Hình thành các Thi thiên.
Sau khi xem xét
bốn bức tranh nầy về bốn địa điểm trong đời sống David, chúng ta đã thấy chàng
đang trốn chạy bàn tay sắt tình thế của con người. Chàng đã nói dối với
Ahimêléc và sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về cái chết của ông ta. Chàng đã tự
hạ thấp mình xuống qua việc lừa dối Akích Vua xứ Gát qua hình ảnh điên dại của
chàng. Mặt khác, David là một nhà tài trợ vô kỷ. Chàng đang lo liệu cho tất cả
số người cùng khốn, mắc nợ nần, và sầu khổ. Chàng cung ứng cho họ nơi nương
thân và sự tiếp trợ. Chàng đã nắn đúc nhiều người trong số họ thành một lực
lượng chiến đấu không hề biết sợ hãi. Trong một hành động bảo hộ từ ái, David
dời cha mẹ mình ra khỏi con đường dễ bị hãm hại rồi đặt họ vào trong sự chăm
sóc của mấy người bà con xa ở xứ Môáp.
Trong khi mọi
điều nầy đang tiếp diễn, có lẽ vào cuối những buổi chiều khi ông chơi đàn lia
bên ngọn lửa trại, David đã sáng tác các Thi thiên. Như trong sách I Samuên, ở
đó cung ứng cho chúng ta thấy nhiều hình ảnh nói tới các biến cố trong đời sống
David suốt khoảng thời gian nầy, các Thi thiên đặc biệt nầy cung ứng cho chúng
ta một cánh cửa sổ nhìn vào linh hồn của David. Đồng thời, chúng cũng là những
bài hát thờ phượng và là những lời cầu nguyện xin tiếp trợ. Chúng cho chúng ta
thấy ngay cả khi David nói dối và thất bại không tin cậy nơi Đức Chúa Trời, thì
Đức Thánh Linh vẫn cứ vận hành ở trong tấm lòng của chàng.
Trước tiên hãy
nhìn vào Thi thiên 56. Dòng đề tựa của Thi thiên
nầy ghi như sau: "Cho thầy nhạc chánh, theo điếu ‘bồ
câu của cây thông phương xa’ [danh xưng nầy
không nghi ngờ chi nữa là một bài ca than khóc đã được viết ra ở trong tù]. Thơ
David làm, khi dân Philitin bắt người trong thành Gát". Hãy cùng tôi
đọc mấy dòng của Thi thiên nầy. Hãy tưởng tượng David đang ở trong xà lim thuộc
thành phố của kẻ thù mình.
"Đức
Chúa Trời ôi! xin thương xót tôi; vì người ta muốn ăn nuốt tôi; Hằng ngày họ
đánh giặc cùng tôi, và hà hiếp tôi" (câu 1).
"Hằng
ngày chúng nó trái ý lời tôi, các tư tưởng chúng nó đều toan hại tôi. Chúng nó
nhóm nhau lại, rình rập, nom dòm các bước tôi, Bởi vì chúng nó muốn hại mạng
sống tôi" (các câu 5-6).
Hãy xem lại các
câu 3-4: "Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy
nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; Tôi để lòng tin cậy
nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì; Người xác thịt sẽ làm chi tôi?"
Câu 8 rất là dịu
dàng: "Chúa đếm các bước đi qua đi lại của tôi: Xin Chúa để nước
mắt tôi trong ve của Chúa, nước mắt tôi há chẳng được ghi vào sổ Chúa sao?"
"Vì
Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết: Chúa há chẳng giữ chân tôi khỏi vấp
ngã, hầu cho tôi đi trước mặt Đức Chúa Trời trong sự sáng của sự sống?" (câu 13).
Khi chúng ta quay
sang Thi thiên 34, chúng ta thấy đề tựa ghi
như sau: "Thơ David làm, khi người giả bộ điên dại trước mặt
Abimêléc, và bị người đuổi đi".
Chẳng lẽ quí vị
không nhìn thấy khi chàng bước qua hai cánh cổng thành và chúng đã đóng lại sau
lưng chàng sao? Chàng đã được tự do! Chàng kêu lên: "Tôi sẽ
chúc tụng Đức Giê-hô-va luôn luôn, sự khen ngợi Ngài hằng ở nơi miệng tôi". Hãy cùng
tôi đọc một vài câu chọn lọc.
"Tôi đã
tìm cầu Đức Giê-hô-va, Ngài đáp lại tôi, giải cứu tôi khỏi các đều sợ hãi" (câu 4).
"Thiên
sứ Đức Giê-hô-va đóng lại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài, và giải cứu họ.
Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao! Phước cho người nào nương náu
mình nơi Ngài!" (các câu 7-8).
"Mắt
Đức Giê-hô-va đoái xem người công bình, lỗ tai Ngài nghe tiếng kêu cầu của họ" (câu
15).
"Người
công bình kêu cầu, Đức Giê-hô-va bèn nghe, và giải cứu người khỏi các sự gian
truân. Đức Giê-hô-va ở gần những người có lòng đau thương, và cứu kẻ nào có tâm
hồn thống-hối" (các câu 17-18).
Giờ đây hãy quay
sang Thi thiên 142. Thi thiên nầy là "Thơ
dạy dỗ David làm, khi ở trong hang đá. Bài cầu nguyện". Tôi tưởng tượng
David đang viết ra Thi thiên nầy bên ngọn lửa trong suốt thời gian sống cô độc
trong hang đá Ađulam. Chàng rất ngã lòng. Chàng lấy làm lạ không biết Đức Chúa
Trời có lắng nghe và không biết Ngài có chăm sóc hay không nữa.
"Tôi
cất tiếng kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va; Tôi cất tiếng cầu khẩn Đức Giê-hô-va. Ở
trước mặt Ngài tôi tuôn đổ sự than thở tôi, bày tỏ sự gian nan tôi" (các
câu 1-2).
"Xin
Chúa nhìn phía hữu tôi, coi; Chẳng có ai nhận biết tôi; Tôi cũng không có nơi
nào để nương náu mình; Chẳng người nào hỏi thăm linh hồn tôi" (câu 4).
Dù đang thất
vọng, David vẫn nhơn đức tin trông mong Đức Chúa Trời: "Hỡi
Đức Giê-hô-va, tôi kêu cầu cùng Ngài, mà rằng: Ngài là nơi nương náu của tôi,
phần tôi trong đất kẻ sống. Xin Chúa lắng nghe tiếng tôi, vì tôi bị khốn khổ vô
cùng; Xin hãy cứu tôi khỏi kẻ bắt bớ tôi, vì chúng nó mạnh hơn tôi. Xin hãy rút
linh hồn tôi khỏi ngục khám, để tôi cảm tạ danh Chúa. Những người công bình sẽ
vây quanh tôi, bởi vì Chúa làm ơn cho tôi" (các câu 5-7).
Sau cùng, hãy mở
ra Thi thiên 57. Đề tựa ghi như sau: "Cho
thầy nhạc chánh, theo điếu ‘Chớ phá hủy’. Thơ David làm, khi người chạy trốn
trong hang đá, khỏi Saulơ". Đức Chúa Trời đã đáp lời
cầu nguyện của David. Tôi tin lúc bấy giờ Thi thiên nầy đã được viết ra khi gia
đình David và bạn bè nhóm lại chung quanh chàng.
"Đức Chúa
Trời ôi! xin thương xót tôi, xin thương xót tôi, vì linh hồn tôi nương náu nơi
Chúa! Phải, tôi nương náu mình dưới bóng cánh của Chúa, cho đến chừng tai họa
đã qua" (câu 1).
Hãy tưởng tượng
chàng đang viết Thi thiên nầy khi chàng nhìn vào các chiến binh trẻ tuổi nhóm
lại cùng chàng trong hang đá. "Linh hồn tôi ở
giữa các sư tử; tôi nằm giữa những kẻ thổi lửa ra, tức là các con loài người có
răng giống như giáo và tên, và lưỡi chúng nó khác nào gươm nhọn bén. Hỡi Đức
Chúa Trời, nguyện Chúa được tôn cao hơn các từng trời; Nguyện sự vinh hiển Chúa
trổi cao hơn cả trái đất!" (các câu 4-5).
David dấy lên lời khen ngợi rất thuộc linh dù khi về
phần xác chàng đang lẫn trốn trong hang đá: "Hỡi Đức Chúa Trời, lòng tôi vững chắc, lòng tôi vững chắc; Tôi sẽ hát, phải,
tôi sẽ hát ngợi khen. Hỡi sự vinh hiển ta, hãy tỉnh thức! Hỡi cầm sắt, hãy tỉnh
thức! Chính mình tôi sẽ tỉnh thức thật sớm. Hỡi Chúa, tôi sẽ cảm tạ Chúa giữa
các dân, hát ngợi khen Chúa trong các nước. Vì sự nhân từ Chúa lớn đến tận
trời, sự chân thật Chúa cao đến các từng mây. Hỡi Đức Chúa Trời, nguyện Chúa
được tôn cao hơn các từng trời. Nguyện sự vinh hiển Chúa trổi cao hơn cả trái
đất!" (các câu 7-11).
Sáng nay tôi muốn
trình bày cho quí vị thấy các hình ảnh đậm nét về gia đình của tôi. Thay vì thế,
tôi đã trình bày cho quí vị thấy các hình ảnh của David trong Kinh Thánh. Các
Thi thiên của ông còn mở ra thêm cánh cửa lòng của ông. Cánh cửa nào vậy? Điều
nầy có ý nghĩa gì với chúng ta? Nó có nghĩa là dù chúng ta thất
bại, dù khi chúng ta sa ngã trong tội lỗi, dù khi chúng ta nói dối và lừa gạt,
dù khi chúng ta cảm thấy cô độc, dù khi chúng ta cảm thấy Đức Chúa Trời không
lắng nghe, chúng ta cần phải GIỮ LUÔN SỰ CẦU NGUYỆN VÀ CỨ GIỮ SỰ THỜ PHƯỢNG vì
Ngài đang nắm giữ từng con cái của Ngài dưới bóng cánh của Ngài!
Tuần rồi, một
trong những nhà truyền đạo lỗi lạc nhất của lịch sử đã qua đời. Tên của ông là
W.A. Criswell, bấy lâu nay ông là Mục sư Chủ toạ của Hội Thánh Báptít Đầu Tiên
của Dallas. Mục sư Criswell luôn luôn được ghi nhớ là một nhà chú giải Kinh
Thánh rất lỗi lạc. Tôi đã nghe ông giảng mấy lần và thường nghe ông giảng trên
đài phát thanh mỗi sáng Chúa nhựt. Ông đã sống đến 92 tuổi và đã phục vụ Hội
Thánh lớn đó trong 58 năm, 48 năm làm Mục sư Chủ Toạ. Tuần nầy tôi có đọc bài
phỏng vấn sau cùng Mục sư Criswell do tờ Dallas Morning
News đăng. Thời điểm năm 1994. Ở thời điểm nầy phóng viên hỏi: "Ông
có chút nghi ngờ nào không?"
Mục sư Criswell
đáp: "Ồ, cậu bé ơi. Dọc theo chuyến lữ hành nầy có đôi khi
tôi nghĩ mình là kẻ vô đạo".
Phóng viên hỏi: "Sao
ông lại nghĩ thế?"
Ông đáp: "Tôi
không biết, chỉ đôi khi thôi mà, tôi có một thời gian rất khó mà tin theo được.
Tôi mới tin đây mà thôi. Những việc đang xảy ra trong cuộc sống, những việc mà
tôi đang nhìn thấy và những việc mà tôi canh chừng. Ôi, tôi đã phấn đấu với nó.
Tôi phấn đấu với điều ác trong thế gian nầy. Tại sao Đức Chúa Trời không làm
một việc gì đó chứ? Và tôi phấn đấu với điều ấy. Và tôi phấn đấu với sự hiện
diện của sự chết. Chỉ có cậu và tôi đang trao đổi ở đây và chúng ta đang đối diện
với cái ngày không thể tránh được đó. Ồ, đôi khi tôi phấn đấu. Tôi đã đánh trận
qua những thời điểm khó nhọc đó.
“Lý
do rất rõ ràng. Một là tôi không có một chỗ nào để đi hết. Nếu tôi muốn xây qua
bên nầy hay bên kia, tôi không có chút sức nào để xây cả. Chỉ có thất vọng hoàn
toàn mà thôi. Và thứ hai, tôi không lo gì hết, kính sợ Chúa và tin cậy Chúa là
một ơn phước và dù khi chúng ta không hiểu, chúng ta tin rằng Ngài sẽ ban bằng
hết mọi sự. Vì vậy chúng ta chỉ tin nơi Ngài mà thôi".
Cả Mục sư Criswell
và Vua David đều học biết tin cậy Chúa dầu khi họ không hiểu. Họ đã bám vào một
thứ đức tin nói rằng Đức Chúa Trời sẽ ban bằng mọi sự một ngày kia. Và chúng ta
cũng phải sống giống như thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét